Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tập Yếu (Parivāra)
Giới Thiệu Và Mục Lục
Parivāra là tập cuối của Vinayapiṭaka (Tạng Luật). Về ý nghĩa của từ parivāra, học giả I. B. Horner phân tích như sau: “... pari là tiếp đầu ngữ có ý nghĩa: đi vòng quanh, bao bọc xung quanh... và vāra lấy theo từ gốc của Sanskrit là √vṛ có nghĩa là bao phủ...” (√vṛ còn có nghĩa thứ hai là chọn lựa); dựa theo đó, chúng tôi tạm lấy tên là “Tập Yếu” có ý nghĩa nôm na là “Tập hợp lại những điều chính yếu.” Những điều chính yếu ấy đã được chọn lọc từ hai bộ Luật Suttavibhaṅga và Khandhaka rồi được sắp xếp và trình bày qua những góc nhìn khác biệt.
Như vậy, phải chăng bộ Tập Yếu – Parivāra này không đem lại tư liệu
gì mới cho người đọc? Suy nghĩ như vậy xét ra cũng có phần đúng. Tuy nhiên,
trong số những người đã đọc qua, thậm chí đã học một cách kỹ lưỡng hai bộ Luật
trên, người nào có thể khẳng định rằng bản thân có thể hiểu được chính xác và
ghi nhớ đầy đủ các điều đức Phật đã dạy, hoặc nghĩ đến việc hệ thống hóa lại kiến
thức về Luật? Chúng ta hãy thử trả lời các câu hỏi sau: “Các điều học đã được
quy định ở bao nhiêu địa điểm? Mỗi địa điểm như vậy được bao nhiêu điều? Có bao
nhiêu điều học đã được quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni? Là các điều học
nào? Có bao nhiêu điều học đã được quy định riêng cho tỳ khưu, cho tỳ khưu ni?
Là các điều học nào? v.v... Parivāra đã giải quyết các câu hỏi đó giúp cho người
đọc khỏi phải mất thì giờ vận dụng ký ức hoặc phải mở sách ra xem lại.
Mười chín chương của bộ Tập Yếu
– Parivāra được trình bày
theo thứ tự như sau:
Chương 1. Phân Tích Giới Tì Khưu: Tóm lược đầy đủ 227 điều học của tỳ khưu.
Chương 2. Phân Tích Giới Tì Khưu Ni: là phần tóm lược
Bhikkhunīvibhaṅga gồm các điều học được quy định riêng cho tỳ khưu ni, cách
trình bày cũng tương tợ như ở chương trên dành cho tỳ khưu.
Chương 3. Nguồn Sanh Tội: Từ thân khẩu ý được phân chia thành sáu
nguồn sanh tội: có thể sanh lên do thân và do ý, không do khẩu; có thể sanh lên
do khẩu và do ý, không do thân... Có tội chỉ có một nguồn sanh tội, có tội có
hai, có tội có ba, có tội có bốn, có tội có sáu, và tất cả có mười ba nhóm có
nguồn sanh tội giống nhau.
Chương 4. Sự Trùng Lặp Liên Tục- Phân Tích Cách Dàn Xếp: Tuy
được phân ra làm hai phần (a) và (b) nhưng phần (b) chỉ là phần tiếp theo của
phần (a) chưa được hoàn tất. Sở dĩ nhận ra được hai phần riêng biệt do việc các
nhà kết tập vẫn lưu lại câu văn báo hiệu sự kết thúc của phần đầu: “antarapeyyālaṃ
niṭṭhitaṃ” có nghĩa là “Sự Trùng Lặp Liên Tục được chấm dứt.” Về phương diện
hình thức, cả hai phần này là các câu hỏi và đáp mở đầu bằng dạng tiêu đề
(mātikā).
Chương 5. Bộ Hợp Phần: Chỉ là một chương ngắn gọn giới thiệu qua
các chương của bộ này gồm có Đại Phẩm – Mahāvagga và Tiểu Phẩm – Cullavagga dưới
dạng câu hỏi và đáp về bao nhiêu loại tội cho mỗi chương và chấm dứt khi liệt
kê đầy đủ 22 chương của bộ Luật này.
Chương 6. Tăng Theo Từng Bậc: được trình bày dưới dạng pháp số từ nhóm một
đến nhóm mười một có nội dung liên quan đến Luật và hình thức được trình bày
tương tợ như ở Kinh Tăng Chi Bộ – Aṅguttaranikāya thuộc Tạng Kinh.
Chương 7. Lễ Uposatha: Chỉ là một chương ngắn đề cập đến các hành
sự từ lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, ... hành phạt mānatta, và sự giải tội. Phần thứ
nhì nói về lợi ích của việc quy định điều học. Điều đáng lưu ý là chương này được
kết thúc với câu “Mahāvaggo niṭṭhito” nghĩa là “Đại Phẩm được chấm dứt,” trong
khi đó các phần đã được trình bày trong chương này được tìm thấy rải rác trong
toàn bộ Tạng Luật chứ không phải chỉ riêng ở Đại Phẩm – Mahāvaggo.
Chương 8. Sưu Tập Các Bài Kệ (1): Phần lớn được trình bày dưới thể kệ có xen
vào một số đoạn văn xuôi. Nội dung liệt kê tên của tám địa điểm đã xảy ra việc
quy định của các điều học, mỗi nơi là bao nhiêu điều học... ngoài ra còn phân
các điều học thành nhóm theo nhiều khía cạnh khác nhau như quy định chung, quy
định riêng...
Chương 9. Phân Tích Sự Tranh Tụng: Phân tích chi tiết về bốn sự tranh tụng và
bảy cách dàn xếp. Chủ đề được trình bày cô đọng nhưng không kém phần súc tích cần
được tham khảo.
Chương 10. Sưu Tập Các Bài Kệ (2): Chỉ là một chương ngắn thuần túy ở thể kệ
thuộc đề tài có liên quan đến vị cáo tội: ý nghĩa và mục đích của việc cáo tội,
các điểm sai trái chủ yếu mà vị cáo tội cần phải quán xét trong quá trình cáo tội
vị khác.
Chương 11. Cáo Tội: là phần trình bày tiếp theo của chương
trên có liên quan đến vị cáo tội và vị xét xử.
Chương 12. Xung Đột (Phần Phụ):
Chỉ là một chương ngắn có liên quan đến vị xét xử, tuy nhiên các chi tiết được
trình bày là hoàn toàn mới lạ, không tìm thấy trong các phần Luật đã được đọc
qua.
Chương 13. Xung Đột (Phần Chính): Sự thực hành của vị xét xử được giảng giải chi tiết. Cách thức
được trình bày tương tợ như ở bộ Phân Tích Giới Bổn, trước tiên giới thiệu một
đoạn văn sau đó là phần giải thích ý nghĩa của từng câu.
Chương 14. Phân Tích Kaṭhina: Các điều cần biết về Kaṭhina được gom tụ lại
dưới dạng hỏi đáp có tính cách tổng quát nhưng không kém phần súc tích, ngoài
ra còn có những chi tiết chưa được trình bày ở chương Kaṭhina thuộc Đại Phẩm –
Mahāvagga.
Chương 15. Nhóm Năm Của Upāli: là các câu hỏi của ngài Upāli và câu trả lời
của đức Phật như đã được thấy trong Đại Phẩm – Mahāvagga và Tiểu Phẩm –
Cullavagga.
Chương 16. Nguồn Sanh Khởi: Trình bày về nguồn sanh tội như đã được đề
cập ở chương I, II, III. Trong chương này, nguồn sanh tội là chủ đề chính và được
trình bày cô đọng theo từng điều học một.
Chương 17. Sưu Tập Các Bài Kệ (3): Là các câu hỏi đáp liên quan đến tội vi phạm.
Tuy nhiên, câu trả lời chỉ có tính cách gợi ý. Có câu có thể dễ dàng liên hệ được
vấn đề, nhưng nhiều câu trả lời khác đã chiếm mất nhiều thời gian của chúng tôi
trong việc tìm hiểu ý nghĩa từ lời giải thích của ngài Buddhaghosa cũng như xem
xét và kiểm tra các phần trích dẫn của Cô I. B. Horner trong bản dịch tiếng
Anh.
Chương 18. Các Bài Kệ Làm Xuất Mồ Hôi: là các câu hỏi
khó khiến người đọc phải lúng túng và đổ mồ hôi khi suy nghĩ. Về chương này, phần
cước chú là điều không thể thiếu sót và cũng đã tạo ra nhiều khó khăn cho chúng
tôi trong việc xác định vấn đề. Có một vài câu hỏi, chúng tôi chỉ ghi lời dịch
và không thực hiện phần giải thích vì không xác định được nguồn trích dẫn.
Chương 19. Năm Phần: Trình bày theo năm đề tài: Hành sự, điều lợi
ích, sự quy định các loại hành sự, bảy cách dàn xếp đã được quy định, và sự tổng
hợp theo chín vấn đề khác nhau.
Về phần tác giả, nói đúng hơn là vị đã biên tập tài liệu này,
chúng ta chỉ biết được tên vị ấy là Dīpa qua lời tổng kết ở phần cuối của tập
sách. Vị ấy được giới thiệu là “bậc trí tuệ đã học hỏi từ các vị thầy và thực
hiện Parivāra nhằm làm sáng tỏ Chánh Pháp, giúp cho người học Phật giải quyết
những hoài nghi đã sanh khởi.” Có ý kiến cho rằng Dīpa là một vị xuất gia người
ở đảo Tích Lan.[1]
Về thời điểm, cũng không thể xác định chắc chắn. Dựa vào bài kệ
liệt kê tên các vị trưởng lão kế thừa Tạng Luật được đề cập ở đoạn [3] nêu tên
năm vị thuộc Jambudīpa (Ấn Độ), kế tiếp là nhóm năm vị dẫn đầu là ngài Mahinda
có trách nhiệm đi hoằng Pháp ở Tambapaṇṇi, và vị trưởng lão cuối cùng trong
danh sách ấy có tên là Sīva. Có tài liệu phỏng đoán rằng vị Sīva đã sống vào
khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch;[2] như vậy, có thể suy luận rằng tập
Parivāra được thực hiện vào khoảng thời gian đó. Địa điểm đã thực hiện Parivāra
được mặc nhiên chấp nhận là ở trên hòn đảo Tambapaṇṇi ấy (tức là nước Sri Lanka
ngày nay).
Về nội dung, có các vấn đề đáng được lưu ý như sau:
1. Parivāra tuy được xếp vào Tipiṭaka (Tam Tạng), nhưng phần lớn
của Parivāra không phải là những điều đã được nghe trực tiếp từ chính kim khẩu
của đức Phật và được ghi lại nguyên văn như hai bộ Luật kia hoặc các bộ thuộc tạng
Kinh; điều này được dễ dàng xác định qua văn bản. Parivāra tuy không khẳng định
là Phật ngôn nhưng các vấn đề thảo luận không đi ra ngoài những lời dạy của đức
Phật.
2. Parivāra hiện đang sử dụng gồm có 19 chương; tuy nhiên cuối
chương XIV có dòng chữ “Parivāraṃ niṭṭhitaṃ” báo hiệu sự kết thúc của Parivāra.
Dịch giả I. B. Horner dẫn chứng rằng các bản Chú Giải về Luật và Kinh Trường Bộ
của ngài Buddhaghosa đề cập đến “soḷasaparivāra” nghĩa là Parivāra gồm có 16
chương và lưu ý chúng ta về chương IV gồm có 2 phần riêng biệt là
Anantarapeyyāla (Sự trùng lặp liên tục) và Samathabheda (Phân tích cách dàn xếp)
và chương VII gồm có Uposathādipucchāvissajjanā (Các câu vấn đáp về lễ Uposatha...)
và Atthavasapakaraṇa (Lời giải thích về điều lợi ích) đã được thu gọn lại; theo
cách giải thích này chúng ta có được Parivāra với mười sáu chương theo như các
Chú Giải đã đề cập. Như vậy, phải chăng các chương XV-XIX ở phần Chánh Tạng và
Chú Giải đã được thêm vào sau thời kỳ của ngài Buddhaghosa?[3] Điều này cần phải
chờ đợi câu trả lời từ các công trình nghiên cứu nghiêm túc hoặc từ sự tìm ra
các di tích từ những công cuộc khảo cổ để có được câu trả lời thích đáng.
3. Có điều cần nói thêm rằng: Parivāra không phải là sách để đọc
thông thường mà được xem là tài liệu học tập, là học cụ giúp cho người nghiên cứu
Luật hiểu rõ và nắm vững các vấn đề thuộc về Luật. Sự trình bày vấn đề dưới nhiều
góc cạnh, theo từng chủ đề có thể giúp cho người đọc xác định lại kiến thức và
góp phần vào việc củng cố sự ghi nhớ. Tuy nhiên, người đọc phổ thông cũng có thể
học hỏi được những nét đa dạng trong nghệ thuật phân tích vấn đề.
Trong bản tiếng Việt này, chúng tôi đã giữ nguyên từ Pāli đối với
tên gọi của các tội vi phạm và một vài thuật ngữ có tính cách chuyên môn, hy vọng
sẽ không gây trở ngại cho việc nghiên cứu của quý vị. Về phần cước chú, bản Chú
Giải của ngài Buddhaghosa tương đối rõ ràng giúp cho chúng ta có thể hiểu được
vấn đề, nhưng muốn có được trích dẫn chính xác cần phải sử dụng bản dịch tiếng
Anh của Cô I. B. Horner do có phần cước chú đã được thực hiện rất công phu
nhưng thiếu phần tóm lược sự việc nên không giúp cho người đọc liên tưởng ra được
vấn đề. Chúng tôi đã tốn nhiều công sức để sử dụng cả hai nguồn tư liệu trên
cho phần cước chú của bản dịch này; tuy nhiên, chúng tôi chỉ thực hiện một số
cước chú cho những vấn đề cần thiết, một số chúng tôi đã bỏ qua do ngài
Buddhaghosa không giải thích, hoặc do chúng tôi không hiểu được ý của ngài, một
số vấn đề liên quan đến tạng Kinh chúng tôi không có tài liệu để đối chiếu, và
một số khác chúng tôi nghĩ rằng quý độc giả có thể biết được vấn đề đang được
trình bày ở phần nào trong hai bộ Luật kia.
Cũng như các bản dịch trước, bản dịch Tập Yếu – Parivāra của
chúng tôi được thực hiện và trình bày theo văn bản Pali La tinh từ Compact Disk
BUDSIR IV của trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục
chúng tôi thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo
cách này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần
tham khảo. Tuy đã nỗ lực tối đa nhưng chúng tôi biết rằng bản dịch này vẫn còn
nhiều sai sót, rất mong nhận được những sự chỉ dạy và ý kiến đóng góp của quý vị.
Xin email về: dinda@u.washington.edu.
Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Tọa Tiến Sĩ Bửu Chánh
về CD Tam Tạng BUDSIR IV. Chúng tôi vô cùng hoan hỷ khi nhận được từ Ven. Chánh
Kiến bản dịch Parivāra có tên là Tạp Sự Bộ do chính vị ấy đã thực hiện từ bản
tiếng Thái vào thời gian trước đây, và cũng không quên tán dương công đức của Đại
Đức Giác Hạnh về CD Tam Tạng Chat,t,ha Saṅgāyana, đồng thời đã cho mượn dài hạn
các bản dịch tiếng Anh của Cô I. B. Horner. CD Buddhasāsanā, quà biếu của Dr.
Bình Anson, đã đóng góp phần công đức không nhỏ với các tài liệu về Luật bằng
tiếng Việt của quý ngài HT Hộ Tông, HT Bửu Chơn...
Chúng tôi cũng xin ghi nhận sự ủng hộ nhiệt tình của Đại Đức Hộ
Phạm đã hy sinh nhiều thời gian cùng chúng tôi suy nghĩ để tìm ra phương thức
giải quyết cho những điểm khó về văn phạm cũng như từ ngữ. Cũng cần nhắc đến
các sự ủng hộ và lời động viên thăm hỏi của các vị: Ven. Chánh Minh, Dr. Bình
Anson, anh Phạm Trọng Độ, chú Nguyễn Hữu Danh, gia đình Nguyễn Ngọc Vivian, gia
đình Lê Thị Tích, bà Diệu Đài, Phật tử Ngọc Ngân. Không có sự khích lệ của quý
vị, bản dịch này không thể hoàn thành. Mong sao mọi ước nguyện của quý vị đều
được thành tựu như ý.
Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư Tỳ khưu chùa
Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận lợi
cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong thời gian
qua.
Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong ánh hào
quang của Chánh Pháp.
Colombo, ngày 15 tháng 05 năm
2004
Kính bút,
Bhikkhu Indacanda
(Trương đình Dũng)
(Hiệu đính lần thứ nhất hoàn tất
ngày 30/10/2004)
[1] Dịch giả I. B. Horner ghi
lại theo Winternitz, A History of Indian Literature, Volume ii, p. 33.
[2] Oskar Von Hinüber, A
Handbook of Pāli Literature, xem phần giải thích về Parivāra.
[3] Vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch.
Xem Chương 1 - Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments