Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tập Yếu (Parivāra)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 6. Tăng Theo Từng Bậc
Mục Lục
[941] Nhóm Một.
[943] Nhóm Hai, Nhóm Ba, .... Nhóm Mười.
[1004] Nhóm Mười Một.
[1006] Bài kệ tóm lược
Nội Dung
[941] Các pháp tạo ra tội cần phải biết. [1] Các Pháp không tạo
ra tội cần phải biết.[2] Phạm tội cần phải biết. Không phạm tội cần phải biết.
Tội nhẹ cần phải biết. Tội nặng cần phải biết.[3] Tội còn dư sót cần phải biết.
Tội không còn dư sót cần phải biết.[4] Tội xấu xa cần phải biết. Tội không xấu
xa cần phải biết.[5] Tội có sự sửa chữa được cần phải biết. Tội không có sự sửa
chữa được cần phải biết. Tội đưa đến sự sám hối cần phải biết. Tội không đưa đến
sự sám hối cần phải biết. Tội có sự chướng ngại cần phải biết. Tội không có sự
chướng ngại cần phải biết.[6] Tội là điều quy định do sự chê trách cần phải biết.[7]
Tội là điều quy định không do sự chê trách cần phải biết. Tội được sanh lên do
làm cần phải biết. Tội được sanh lên do không làm cần phải biết.[8] Tội được
sanh lên do làm và không làm cần phải biết.[9] Tội vi phạm đầu tiên cần phải biết.
Tội vi phạm đến sau cần phải biết. Tội kế tiếp của các tội vi phạm đầu tiên cần
phải biết. Tội kế tiếp của các tội vi phạm đến sau cần phải biết.[10] Tội đã
sám hối được tính đến cần phải biết.[11] Tội đã sám hối không được tính đến cần
phải biết. Sự quy định cần phải biết. Sự quy định thêm cần phải biết. Sự quy định
khi (sự việc) chưa xảy ra cần phải biết. Sự quy định (áp dụng) cho tất cả mọi
nơi cần phải biết. Sự quy định (áp dụng) cho khu vực cần phải biết. Sự quy định
chung cần phải biết. Sự quy định riêng cần phải biết. Sự quy định cho một (hội
chúng) cần phải biết. Sự quy định cho cả hai (hội chúng) cần phải biết. Tội là
lỗi trầm trọng cần phải biết. Tội là lỗi không trầm trọng cần phải biết.[12] Tội
có liên quan đến người tại gia cần phải biết. Tội không có liên quan đến người
tại gia cần phải biết. Tội (có nghiệp) xác định cần phải biết.[13] Tội (có nghiệp)
không xác định cần phải biết. Người là vị vi phạm đầu tiên cần phải biết. Người
không là vị vi phạm đầu tiên cần phải biết. Người là vị vi phạm không thường
xuyên cần phải biết. Người là vị vi phạm thường xuyên cần phải biết. Người là vị
buộc tội cần phải biết. Người là vị bị buộc tội cần phải biết. Người là vị buộc
tội sai pháp cần phải biết. Người là vị bị buộc tội sai pháp cần phải biết. Người
là vị buộc tội đúng pháp cần phải biết. Người là vị bị buộc tội đúng pháp cần
phải biết. Người đã được xác định cần phải biết. Người chưa được xác định cần
phải biết. Người là vị có thể vi phạm tội cần phải biết. Người là vị không thể
vi phạm tội cần phải biết.[14] Người là vị bị án treo cần phải biết. Người là vị
không bị án treo cần phải biết. Người là vị đã bị trục xuất cần phải biết. Người
là vị không bị trục xuất cần phải biết. Người là vị đồng cộng trú cần phải biết.
Người là vị không đồng cộng trú cần phải biết. Sự đình chỉ cần phải biết.[15]
Hết Phần Nhóm Một
Tóm lược phần này:
[942]
Các sự tạo tác nên,
tội vi phạm, loại nhẹ,
còn dư sót, xấu xa,
sửa chữa, và thú nhận,
chướng ngại, lỗi, hành động,
hành động và không hành,
trước tiên, vào khoảng giữa,
được tính đến, quy định,
chưa xảy ra, mọi nơi,
chung cả, và một bên,
trầm trọng, người tại gia,
và đã được xác định,
đầu tiên, không thường xuyên,
(vị là) người buộc tội,
sai pháp và đúng pháp,
xác định, không thể phạm,
bị án treo, trục xuất,
đồng cộng trú, đình chỉ,
phần tóm lược này đây
chung cho mỗi một điều.
[943] Có loại tội vị vi phạm có sự nhận thức, có loại tội vị vi
phạm không có sự nhận thức. Có loại tội vi phạm của vị đã đạt sự thành tựu, có
loại tội vi phạm của vị chưa đạt sự thành tựu.[16] Có loại tội vi phạm liên
quan đến Chánh Pháp,[17] có loại tội vi phạm không liên quan đến Chánh Pháp. Có
loại tội vi phạm liên quan đến vật dụng của bản thân, có loại tội vi phạm liên
quan đến vật dụng của người khác.[18] Có loại tội vi phạm liên quan đến chính bản
thân, có loại tội vi phạm liên quan đến người khác. Có vị trong khi nói sự thật
vi phạm tội nặng, có vị trong khi nói láo vi phạm tội nhẹ.[19] Có vị trong khi
nói láo vi phạm tội nặng, có vị trong khi nói sự thật vi phạm tội nhẹ.[20] Có
loại tội vi phạm khi ở trên mặt đất (nhưng) không (vi phạm) ở trên khoảng
không, có loại tội vi phạm khi ở trên khoảng không (nhưng) không (vi phạm) ở
trên mặt đất. Có loại tội vi phạm trong khi đi ra ngoài không (vi phạm) trong
khi đi vào, có loại tội vi phạm trong khi đi vào không (vi phạm) trong khi đi
ra ngoài.[21] Có loại tội vi phạm trong khi áp dụng, có loại tội vi phạm trong
khi không áp dụng.[22] Có loại tội vi phạm trong khi thọ trì, có loại tội vi phạm
trong khi không thọ trì.[23] Có loại tội vi phạm trong khi làm, có loại tội vi
phạm trong khi không làm. Có loại tội vi phạm trong khi cho, có loại tội vi phạm
trong khi không cho. Có loại tội vi phạm trong khi thọ lãnh, có loại tội vi phạm
trong khi không thọ lãnh. Có loại tội vi phạm do sự thọ dụng, có loại tội vi phạm
do sự không thọ dụng. Có loại tội vi phạm ban đêm không (vi phạm) ban ngày, có
loại tội vi phạm ban ngày không (vi phạm) ban đêm. Có loại tội vi phạm vào lúc
hừng sáng, có loại tội vi phạm không phải vào lúc hừng sáng. Có loại tội vi phạm
trong khi cắt đứt, có loại tội vi phạm trong khi không cắt đứt.[24] Có loại tội
vi phạm trong khi che đậy, có loại tội vi phạm trong khi không che đậy.[25] Có
loại tội vi phạm trong khi sử dụng, có loại tội vi phạm trong khi không sử dụng.
[944] Hai lễ Uposatha: lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Hai
lễ Pavāraṇā: lễ
ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Hai loại hành sự: hành sự với lời công bố và
hành sự với lời đề nghị. Hai loại hành sự khác nữa: hành sự với lời thông báo đến
lần thứ nhì và hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Hai sự việc của hành sự:
sự việc của hành sự với lời công bố và sự việc của hành sự với lời đề nghị. Hai
sự việc của hành sự khác nữa: sự việc của hành sự với lời thông báo đến lần thứ
nhì và sự việc của hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Hai sự sai trái của
hành sự: sự sai trái của hành sự với lời công bố và sự sai trái của của hành sự
với lời đề nghị. Hai sự sai trái của hành sự khác nữa: sự sai trái của hành sự
với lời thông báo đến lần thứ nhì và sự sai trái của hành sự với lời thông báo
đến lần thứ tư. Hai sự thành tựu của hành sự: sự thành tựu của hành sự với lời
công bố và sự thành tựu của của hành sự với lời đề nghị. Hai sự thành tựu của
hành sự khác nữa: sự thành tựu của hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì và
sự thành tựu của hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Hai nền tảng của việc
không đồng cộng trú: tự bản thân thực hiện việc không đồng cộng trú cho bản
thân hoặc là hội chúng hợp nhất phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận
(tội), hoặc trong việc không sửa chữa (lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến
ác).[26] Hai nền tảng của sự đồng cộng trú chung: tự bản thân thực hiện việc đồng
cộng trú chung cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất phục hồi cho vị ấy khi
đã bị án treo trong việc không nhìn nhận (tội), hoặc trong việc không sửa chữa
(lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến ác).
[945] Hai loại tội pārājika, hai loại tội saṅghādisesa, hai loại tội thullaccaya, hai loại
tội pācittiya, hai loại tội pāṭidesanīya, hai loại tội dukkaṭa, hai loại tội dubbhāsita của các tỳ khưu
và của các tỳ khưu ni. Bảy loại tội, bảy nhóm tội của các tỳ khưu và của các tỳ
khưu ni. Hội chúng bị chia rẽ bằng hai phương thức: bằng hành sự hoặc do sự
phân phát thẻ.
[946] Hai hạng người không nên cho tu lên bậc trên: người chưa đủ
hai mươi tuổi, người có bàn tay, v.v... bị cắt đứt. Hai hạng người khác nữa
không nên cho tu lên bậc trên: người không thành tựu về thân thể, người đã làm
sai trái trong hành động.[27] Hai hạng người khác nữa không nên cho tu lên bậc
trên: người không có đầy đủ (y bát), người có đầy đủ (y bát) nhưng chưa được hỏi
đến. Không nên sống với sự nương nhờ vào hai hạng người: không liêm sỉ và ngu dốt.
Sự nương nhờ không nên ban cho đến hai hạng người: kẻ không liêm sỉ và người có
liêm sỉ nhưng không cầu xin. Sự nương nhờ nên ban cho đến hai hạng người: kẻ
ngu dốt và người có liêm sỉ có cầu xin. Hai hạng người không thể vi phạm tội:
Chư Phật và chư Phật Độc Giác. Hai hạng người có thể vi phạm tội: các tỳ khưu
và các tỳ khưu ni. Hai hạng người không thể vi phạm tội với sự cố ý: các tỳ
khưu và các tỳ khưu ni là các thánh nhân. Hai hạng người có thể vi phạm tội với
sự cố ý: các tỳ khưu và các tỳ khưu ni là các phàm nhân. Hai hạng người không
thể cố ý vi phạm sự việc có tính chất sái quấy: các tỳ khưu và các tỳ khưu ni
là các thánh nhân. Hai hạng người có thể cố ý vi phạm sự việc có tính chất sái
quấy: các tỳ khưu và các tỳ khưu ni là các phàm nhân.
[947] Hai sự phản đối: vị phản đối bằng thân hoặc vị phản đối bằng
khẩu. Hai sự mời ra: có vị không đáng để chịu sự mời ra nhưng nếu hội chúng mời
vị ấy ra, một vị đã được mời ra đúng, một vị đã bị mời ra sai.[28] Hai sự phục
hồi: có vị không đáng để được sự phục hồi nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy, một
vị đã được phục hồi đúng, một vị đã được phục hồi sai.[29] Hai sự nhận biết: vị
nhận biết bằng thân hoặc vị nhận biết bằng khẩu. Hai sự nhận lãnh: vị nhận lãnh
bằng thân hoặc vị nhận lãnh bằng vật được gắn liền với thân. Hai sự từ khước: vị
từ khước bằng thân hoặc vị từ khước bằng khẩu. Hai sự gây tổn hại: sự gây tổn hại
về việc học tập và sự gây tổn hại về vật sở hữu. Hai sự cáo tội: vị cáo tội bằng
thân hoặc là vị cáo tội bằng khẩu.
[948] Hai điều vướng bận của Kaṭhina: điều vướng bận về trú xứ và điều vướng
bận về y. Hai điều không vướng bận của Kaṭhina: điều không vướng bận về trú xứ và điều
không vướng bận về y. Hai loại y: có liên quan đến gia chủ và có liên quan đến
vải quăng bỏ (paṃsukūlikaṃ). Hai loại bình bát: bình bát bằng sắt và bình bát bằng đất. Hai
loại vòng (kê bình bát): loại làm bằng kẽm và loại làm bằng chì. Hai sự chú
nguyện bình bát: vị chú nguyện bằng thân hoặc vị chú nguyện bằng khẩu. Hai sự
chú nguyện y để dùng riêng: vị chú nguyện bằng thân hoặc vị chú nguyện bằng khẩu.
Hai sự chú nguyện để dùng chung: sự chú nguyện để dùng chung có mặt và sự chú
nguyện để dùng chung vắng mặt. Hai bộ Luật: của các tỳ khưu và của các tỳ khưu
ni. Hai điều liên quan đến Luật: việc đã được quy định và điều phù hợp với việc
đã được quy định. Hai sự tuân thủ đối với Luật: cắt đứt sự nối liền với điều
không được phép, thực hành có chừng mực trong điều được phép.
[949] Vi phạm tội với hai biểu hiện: vi phạm bằng thân hoặc vi phạm
bằng khẩu. Thoát khỏi tội với hai biểu hiện: thoát khỏi tội bằng thân hoặc
thoát khỏi tội bằng khẩu. Hai hành phạt parivāsa: hành phạt parivāsa có che giấu
và hành phạt parivāsa không có che giấu. Hai hành phạt parivāsa khác nữa: hành
phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch và hành phạt parivāsa kết hợp. Hai hành phạt
mānatta: hành phạt mānatta có che giấu và hành phạt mānatta không có che giấu.
Hai hành phạt mānatta khác nữa: hành phạt mānatta nửa tháng và hành phạt
mānatta kết hợp. Sự đứt đêm của hai hạng người: của vị hành parivāsa và của vị
hành mānatta.
[950] Hai sự không tôn trọng: sự không tôn trọng người và sự
không tôn trọng Pháp. Hai loại muối: muối tự nhiên và muối tự tạo. Hai loại muối
khác nữa: muối biển và muối đen. Hai loại muối khác nữa: muối ở đá và muối nấu
ăn. Hai loại muối khác nữa: muối romakaṃ và muối pakkhallakaṃ. Hai sự thọ dụng: sự thọ dụng bên trong và
sự thọ dụng bên ngoài.[30] Hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao
quý.[31] Sự đâm thọc vì hai nguyên do: của vị ao ước được thương hoặc là của vị
có ý định chia rẽ. Vật thực dâng chung nhóm được sanh lên từ hai nguyên do: do
sự thỉnh mời hoặc do sự yêu cầu. Hai thời kỳ vào mùa (an cư) mưa: thời kỳ trước
và thời kỳ sau.[32] Hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai pháp và hai sự đình
chỉ giới bổn Pātimokkha đúng pháp.[33]
[951] Hai hạng người ngu dốt: vị hành xử trách nhiệm không được
yêu cầu và vị không hành xử trách nhiệm được yêu cầu. Hai hạng người thông
thái: vị không hành xử trách nhiệm không được yêu cầu và vị hành xử trách nhiệm
được yêu cầu. Hai hạng người ngu dốt khác nữa: hạng lầm tưởng là được phép đối
với việc không được phép và hạng lầm tưởng là không được phép đối với việc được
phép. Hai hạng người thông thái khác nữa: hạng nhận biết là không được phép đối
với việc không được phép và hạng nhận biết là được phép đối với việc được phép.
Hai hạng người ngu dốt khác nữa: hạng lầm tưởng là phạm tội trong việc không phạm
tội và hạng lầm tưởng là không phạm tội trong việc phạm tội. Hai hạng người
thông thái khác nữa: hạng nhận biết là phạm tội trong việc phạm tội và hạng nhận
biết là không phạm tội trong việc không phạm tội. Hai hạng người ngu dốt khác nữa:
hạng lầm tưởng là đúng Pháp đối với việc sai Pháp và hạng lầm tưởng là sai Pháp
đối với việc đúng Pháp. Hai hạng người thông thái khác nữa: hạng nhận biết là
sai Pháp đối với việc sai Pháp và hạng nhận biết là đúng Pháp đối với việc đúng
Pháp. Hai hạng người ngu dốt khác nữa: hạng lầm tưởng là đúng Luật đối với việc
sai Luật và hạng lầm tưởng là sai Luật đối với việc đúng Luật. Hai hạng người
thông thái khác nữa: hạng nhận biết là sai Luật đối với việc sai Luật và hạng
nhận biết là đúng Luật đối với việc đúng Luật.
[952] Các lậu hoặc tăng trưởng ở hai hạng người: hạng hối hận về
việc không đáng hối hận và hạng không hối hận về việc đáng hối hận. Các lậu hoặc
không tăng trưởng ở hai hạng người: hạng không hối hận về việc không đáng hối hận
và hạng hối hận về việc đáng hối hận. Các lậu hoặc tăng trưởng ở hai hạng người
khác nữa: hạng lầm tưởng là được phép đối với việc không được phép và hạng lầm
tưởng là không được phép đối với việc được phép. Các lậu hoặc không tăng trưởng
ở hai hạng người khác nữa: hạng nhận biết là không được phép đối với việc không
được phép và hạng nhận biết là được phép đối với việc được phép. Các lậu hoặc
tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng lầm tưởng là phạm tội trong việc
không phạm tội và hạng lầm tưởng là không phạm tội trong việc phạm tội. Các lậu
hoặc không tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng nhận biết là phạm tội
trong việc phạm tội và hạng nhận biết là không phạm tội trong việc không phạm tội.
Các lậu hoặc tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng lầm tưởng là đúng Pháp
đối với việc sai Pháp và hạng lầm tưởng là sai Pháp đối với việc đúng Pháp. Các
lậu hoặc không tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng nhận biết là sai
Pháp đối với việc sai Pháp và hạng nhận biết là đúng Pháp đối với việc đúng
Pháp. Các lậu hoặc tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng lầm tưởng là
đúng Luật đối với việc sai Luật và hạng lầm tưởng là sai Luật đối với việc đúng
Luật. Các lậu hoặc không tăng trưởng ở hai hạng người khác nữa: hạng nhận biết
là sai Luật đối với việc sai Luật và hạng nhận biết là đúng Luật đối với việc
đúng Luật.
Dứt Phần Nhóm Hai
Tóm lược phần này:
[953]
Có nhận thức, đạt được,
và (liên quan) Chánh Pháp,
vật dụng, và con người,
sự thật, trên mặt đất,
khi đi ra, áp dụng,
thọ trì, trong khi làm,
trong khi cho, thọ lãnh,
do thọ dụng, ban đêm,
lúc hừng sáng, cắt đứt,
khi che đậy, sử dụng.
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
hành sự, và khác nữa,
sự việc, và sai trái
có hai điều khác nữa,
(cũng thế) sự thành tựu,
và hai điều khác nữa,
không đồng, đồng cộng trú.
Tội pārājika,
saṅghādisesa,
trọng tội, ưng đối trị,
ưng phát lộ, tác ác,
và cả tội ác khẩu,
bảy nhóm tội, chia rẽ.
Việc tu lên bậc trên,
cũng thế các đôi khác:
không nên sống, không cho,
có thể, không có thể,
cố ý, có sái quấy.
Sự phản đối, mời ra,
phục hồi, và nhận biết,
sự nhận lãnh, khước từ,
gây tổn hại, cáo tội.
Hai điều Kaṭhina,
cũng vậy hai loại y,
bình bát, và vòng đế,
chú nguyện cũng hai điều,
chú nguyện để dùng chung,
về Luật, liên quan Luật,
và (hai) sự tuân thủ.
Vi phạm, và thoát tội,
phạt pārivāsa,
thêm hai loại khác nữa,
hai loại mānatta,
và các trường hợp khác,
đứt đêm, không tôn trọng,
về hai loại muối ăn,
thêm ba cặp khác nữa,
sự thọ dụng, sỉ vả,
đâm thọc, (dâng) chung nhóm,
(an cư) mưa, đình chỉ.
trách nhiệm, được cho phép,
không phạm tội, sai Pháp,
cũng theo cách như thế
về Luật, và lậu hoặc.
[954] Có loại tội vi phạm khi đức Thế Tôn còn hiện tiền, không vi
phạm khi Ngài đã Vô Dư Niết Bàn, có loại tội vi phạm khi đức Thế Tôn đã Vô Dư
Niết Bàn, không vi phạm khi Ngài còn hiện tiền, có loại tội vi phạm ngay khi đức
Thế Tôn còn hiện tiền luôn cả khi Ngài đã Vô Dư Niết Bàn.[34] Có loại tội vi phạm
vào lúc đúng thời không vi phạm lúc sái thời, có loại tội vi phạm vào lúc sái
thời không vi phạm lúc đúng thời, có loại tội vi phạm vào lúc đúng thời luôn cả
lúc sái thời.[35] Có loại tội vi phạm vào ban đêm không vi phạm vào ban ngày,
có loại tội vi phạm vào ban ngày không vi phạm vào ban đêm, có loại tội vi phạm
vào ban đêm luôn cả vào ban ngày.[36] Có loại tội vị mười năm (thâm niên) vi phạm
vị kém mười năm không (vi phạm), có loại tội vị kém mười năm (thâm niên) vi phạm
vị mười năm không (vi phạm), có loại tội vị mười năm (thâm niên) luôn cả vị kém
mười năm đều vi phạm.[37] Có loại tội vị năm năm (thâm niên) vi phạm vị kém năm
năm không (vi phạm), có loại tội vị kém năm năm (thâm niên) vi phạm vị năm năm
không (vi phạm), có loại tội vị năm năm (thâm niên) luôn cả vị kém năm năm đều
vi phạm.[38] Có loại tội vị vi phạm có tâm thiện, có loại tội vị vi phạm có tâm
bất thiện, có loại tội vị vi phạm có tâm vô ký.[39] Có loại tội vị vi phạm có
thọ lạc, có loại tội vị vi phạm có thọ khổ, có loại tội vị vi phạm có thọ không
khổ không lạc.[40]
[955] Ba nền tảng của sự cáo tội: do được thấy, do được nghe, do
sự nghi ngờ. Ba cách phân phát thẻ: lối kín đáo, với sự nói nhỏ vào tai, lối
công khai.[41] Ba sự khước từ: sự ham muốn nhiều, sự không tự thỏa mãn, sự
không tuân thủ. Ba sự chấp nhận: sự ham muốn ít, sự tự thỏa mãn, sự tuân thủ.
Ba sự khước từ khác nữa: sự ham muốn nhiều, sự không tự thỏa mãn, sự không biết
chừng mực. Ba sự chấp nhận (khác nữa): sự ham muốn ít, sự tự thỏa mãn, sự biết
chừng mực. Ba sự quy định: sự quy định (lần đầu), sự quy định thêm, sự quy định
khi (sự việc) chưa xảy ra.[42] Ba sự quy định khác nữa: sự quy định (áp dụng)
cho tất cả mọi nơi, sự quy định (áp dụng) cho khu vực, sự quy định chung (cho tỳ
khưu và tỳ khưu ni). Ba sự quy định khác nữa: sự quy định riêng, sự quy định
cho một (hội chúng), sự quy định cho cả hai (hội chúng tỳ khưu và tỳ khưu ni).
[956] Có loại tội vị ngu dốt
vi phạm vị thông thái không (vi phạm), có loại tội vị thông thái vi phạm vị ngu
dốt không (vi phạm), có loại tội vị ngu dốt luôn cả vị thông thái đều vi phạm.
Có loại tội vi phạm vào hậu bán nguyệt không (vi phạm) vào tiền bán nguyệt, có
loại tội vi phạm vào tiền bán nguyệt không (vi phạm) vào hậu bán nguyệt, có loại
tội vi phạm vào hậu bán nguyệt luôn cả vào tiền bán nguyệt.[43] Có việc được
phép vào hậu bán nguyệt không (được phép) vào tiền bán nguyệt, có việc được
phép vào tiền bán nguyệt không (được phép) vào hậu bán nguyệt, có việc được
phép vào hậu bán nguyệt luôn cả vào tiền bán nguyệt. Có loại tội vi phạm vào mùa
lạnh không (vi phạm) vào mùa nóng và mùa mưa, có loại tội vi phạm vào mùa nóng
không (vi phạm) vào mùa lạnh và mùa mưa, có loại tội vi phạm vào mùa mưa không
(vi phạm) vào mùa nóng và mùa lạnh.[44] Có loại tội hội chúng vi phạm, nhóm và
cá nhân không (vi phạm); có loại tội nhóm vi phạm, hội chúng và cá nhân không
(vi phạm); có loại tội cá nhân vi phạm, hội chúng và nhóm không (vi phạm).[45]
Có việc được phép đối với hội chúng, không (được phép) đối với nhóm và cá nhân;
có việc được phép đối với nhóm, không (được phép) đối với hội chúng và cá nhân;
có việc được phép đối với cá nhân, không (được phép) đối với hội chúng và nhóm.
[957] Ba sự che giấu: vị che giấu sự việc (nhưng) không (che giấu)
tội vi phạm, vị che giấu tội vi phạm (nhưng) không (che giấu) sự việc, vị che
giấu sự việc luôn cả tội vi phạm. Ba sự che kín: sự che kín ở trong nhà tắm
hơi, sự che kín ở trong nước, sự che kín bằng vải vóc. Ba việc được vận hành giấu
kín không bộc lộ: người nữ hành xử giấu kín không bộc lộ, chú thuật của
bà-la-môn được vận hành giấu kín không bộc lộ, tri kiến sai trái được vận hành
giấu kín không bộc lộ. Ba việc được chiếu sáng bộc lộ không che giấu: Vầng
trăng tròn được rọi sáng bộc lộ không che giấu, vầng mặt trời được rọi sáng bộc
lộ không che giấu, Pháp và Luật đã được công bố bởi đức Như Lai được rọi sáng bộc
lộ không che giấu. Ba thời điểm phân phối chỗ trú ngụ: thời điểm trước, thời điểm
sau, thời điểm trung gian.[46]
[958] Có loại tội vị bị bệnh vi phạm vị không bệnh không vi phạm,
có loại tội vị không bệnh vi phạm vị bị bệnh không vi phạm, có loại tội vị bị bệnh
luôn cả vị không bệnh vi phạm.[47]
[959] Ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Ba sự đình chỉ
giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.[48] Ba hành phạt parivāsa: hành phạt parivāsa có
che giấu, hành phạt parivāsa không có che giấu, hành phạt parivāsa hoàn toàn
trong sạch.[49] Ba hành phạt mānatta: hành phạt mānatta có che giấu, hành phạt
mānatta không có che giấu, hành phạt mānatta nửa tháng. Ba sự đứt đêm của vị tỳ
khưu hành parivāsa: sự cư ngụ chung, sự cư ngụ tách rời, sự không trình
báo.[50]
[960] Có loại tội vi phạm ở bên trong không (vi phạm) ở bên
ngoài, có loại tội vi phạm ở bên ngoài không (vi phạm) ở bên trong, có loại tội
vi phạm ở bên trong luôn cả ở bên ngoài.[51] Có loại tội vi phạm ở bên trong
ranh giới không (vi phạm) ở bên ngoài ranh giới, có loại tội vi phạm ở bên
ngoài ranh giới không (vi phạm) ở bên trong ranh giới, có loại tội vi phạm ở
bên trong ranh giới luôn cả ở bên ngoài ranh giới.[52]
[961] Vị vi phạm tội với ba biểu hiện: vị vi phạm do thân, vị vi
phạm do khẩu, vị vi phạm do thân do khẩu. Vị vi phạm tội với ba biểu hiện khác
nữa: vị vi phạm tội ở giữa hội chúng, ở giữa nhóm, trong sự hiện diện của cá
nhân. Vị thoát khỏi tội với ba biểu hiện: vị thoát khỏi (tội) do thân, vị thoát
khỏi (tội) do khẩu, vị thoát khỏi (tội) do thân do khẩu. Vị thoát khỏi tội với
ba biểu hiện khác nữa: vị thoát khỏi tội ở giữa hội chúng, ở giữa nhóm, trong sự
hiện diện của cá nhân. Ba sự ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng sai
Pháp. Ba sự ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đúng Pháp.[53]
[962] Hội chúng nếu muốn có thể thực thi hành sự khiển trách đối
với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây nên sự xung đột, thường gây
nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm
nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh
nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); là vị năng thân cận người
tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia.[54] Hội chúng nếu
muốn có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là
vị thường gây nên sự xung đột, ...(như trên)... thường gây nên sự tranh tụng
trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm
cho thoát (tội); là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn
lộn cùng người tại gia.[55] Hội chúng nếu muốn có thể thực thi hành sự xua đuổi
đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây nên sự xung đột,
...(như trên)... thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si,
thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội);[56] là vị làm
hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái.[57] Hội chúng nếu muốn có thể thực
thi hành sự hòa giải đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây
nên sự xung đột, ...(như trên)... thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng;
là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội);
là vị mắng nhiếc, nói xấu người tại gia.[58] Hội chúng nếu muốn có thể thực thi
hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc
tính: là vị thường gây nên sự xung đột, ...(như trên)... thường gây nên sự
tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội,
chưa được làm cho thoát (tội); là vị sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận
tội.[59] Hội chúng nếu muốn có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa
chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây nên sự xung đột,
...(như trên)... thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si,
thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); là vị sau khi
phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi.[60] Hội chúng nếu muốn có thể thực thi
hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba
đặc tính: là vị thường gây nên sự xung đột, ...(như trên)... thường gây nên sự
tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội,
chưa được làm cho thoát (tội); là vị không muốn từ bỏ tà kiến ác.[61] Hội chúng
nếu muốn có thể nghĩ đến (hành phạt) cứng rắn đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc
tính: là vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây
nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự
tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội,
chưa được làm cho thoát (tội); là vị năng thân cận người tại gia, sống không
nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Hành sự nên được thực thi đối với vị tỳ
khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Hành sự
nên được thực thi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị bị hư hỏng
về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh,
bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Hành sự nên được thực thi đối với
vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị có sự đùa giỡn bằng thân, có sự
đùa giỡn bằng khẩu, có sự đùa giỡn bằng thân và khẩu. Hành sự nên được thực thi
đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị có hành động sai trái bằng
thân, có hành động sai trái bằng khẩu, có hành động sai trái bằng thân và khẩu.
Hành sự nên được thực thi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị
có sự gây tổn hại bằng thân, có sự gây tổn hại bằng khẩu, có sự gây tổn hại bằng
thân và khẩu. Hành sự nên được thực thi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính
khác nữa: là vị có sự nuôi mạng sai trái bằng thân, có sự nuôi mạng sai trái bằng
khẩu, có sự nuôi mạng sai trái bằng thân và khẩu. Hành sự nên được thực thi đối
với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị vi phạm tội đã được thực thi
hành sự vẫn ban phép tu lên bậc trên, vẫn ban cho phép nương nhờ, vẫn để cho sa
di phục vụ. Hành sự nên được thực thi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính
khác nữa: là vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự, hoặc tội khác
tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy. Hành sự nên được thực thi đối với vị
tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị chê bai đức Phật, là vị chê bai Giáo
Pháp, là vị chê bai Hội chúng. Hội chúng sau khi đã áp chế rằng: “Này tỳ khưu,
thôi đi. Chớ có (gây nên) sự xung đột, sự cãi cọ, sự tranh luận, sự tranh cãi”
đối với vị tỳ khưu đang đình chỉ lễ Uposatha ở giữa hội chúng là vị hội đủ ba đặc
tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch rồi nên tiến hành lễ
Uposatha. Hội chúng sau khi đã áp chế rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi. Chớ có (gây
nên) sự xung đột, sự cãi cọ, sự tranh luận, sự tranh cãi” đối với vị tỳ khưu
đang đình chỉ lễ Pavāraṇā ở giữa hội chúng là vị hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ,
ngu dốt, và không trong sạch rồi nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Không nên ban cho bất cứ sự đồng ý nào của
hội chúng đến vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và
không trong sạch. Vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và
không trong sạch không nên phát biểu đến hội chúng. Không nên sắp xếp cho vị tỳ
khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch ở bất cứ
chỗ nào riêng biệt. Không nên sống nương nhờ vào vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính:
là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính:
là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch không nên ban cho phép nương nhờ.
Vị tỳ khưu trong khi thỉnh ý (để buộc tội) hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ,
ngu dốt, và không trong sạch thì không xứng đáng để thực hiện việc thỉnh ý.
Không nên nghe theo lời khuyên bảo của vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô
liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Không nên hỏi về Luật (ở) vị tỳ khưu hội
đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Vị tỳ khưu hội
đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch không nên hỏi về
Luật. Không nên trả lời về Luật đến vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô
liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô
liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch không nên trả lời về Luật. Không nên ban
cho sự thẩm vấn (về Luật) đến vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ,
ngu dốt, và không trong sạch. Không nên thảo luận về Luật với vị tỳ khưu hội đủ
ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch. Vị tỳ khưu hội đủ
ba đặc tính: là vị vô liêm sỉ, ngu dốt, và không trong sạch không nên ban phép
tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để cho sa di phục
vụ.
[963] Ba lễ Uposatha: lễ ngày mười bốn, lễ ngày mười lăm, lễ
Uposatha hợp nhất. Ba lễ Uposatha khác nữa: lễ Uposatha ở hội chúng, lễ
Uposatha ở nhóm, lễ Uposatha ở cá nhân. Ba lễ Uposatha khác nữa: lễ Uposatha với
sự đọc tụng, lễ Uposatha với sự (bày tỏ) trong sạch, lễ Uposatha với sự chú
nguyện. Ba lễ Pavāraṇā: lễ ngày mười bốn, lễ ngày mười lăm, lễ Pavāraṇā hợp nhất. Ba lễ Pavāraṇā khác nữa: lễ Pavāraṇā ở hội chúng, lễ Pavāraṇā ở nhóm, lễ Pavāraṇā ở cá nhân. Ba lễ Pavāraṇā khác nữa: lễ Pavāraṇā với ba lần đọc, lễ Pavāraṇā với hai lần đọc, lễ Pavāraṇā với (các vị) đồng năm tu (đọc một lượt).
Ba kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, không thể thoát khỏi
điều này: là kẻ nào không có Phạm hạnh tỏ vẻ là người hành Phạm hạnh; là kẻ nào
bôi nhọ vị có Phạm hạnh trong sạch đang thực hành Phạm hạnh hoàn toàn trong sạch
về việc phi Phạm hạnh không nguyên cớ; và là kẻ nào nói như vầy có tri kiến như
vầy về điều này: “Không có sái quấy trong các dục” rồi kẻ ấy lao vào say đắm
trong các dục. Ba nguồn gốc bất thiện: tham là nguồn gốc bất thiện, sân là nguồn
gốc bất thiện, si là nguồn gốc bất thiện. Ba nguồn gốc thiện: vô tham là nguồn
gốc thiện, vô sân là nguồn gốc thiện, vô si là nguồn gốc thiện. Ba ác hạnh:
thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh. Ba thiện hạnh: thân thiện hạnh, khẩu thiện
hạnh, ý thiện hạnh. Đức Thế Tôn quy định bữa ăn của nhóm ba (tỳ khưu) ở các gia
đình vì ba điều lợi ích: nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc
trú của các tỳ khưu hiền thiện, và vì lòng thương tưởng các gia đình rằng: “Chớ
để những kẻ có ước muốn xấu xa nương tựa vào phe nhóm để chia rẽ hội
chúng.”[62] Devadatta có tâm bị xâm chiếm, bị ngự trị bởi ba điều không đúng
chánh Pháp là: ước muốn xấu xa, bạn hữu xấu xa, đã dừng lại ở giữa pháp thiền
và pháp siêu thế (nên trở thành) kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh
địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được. Ba sự đồng ý: sự đồng ý về gậy,
sự đồng ý về dây, sự đồng ý về gậy và dây.[63] Ba loại giày đặt ở chỗ nhất định,
không thể mang đi (nơi khác) là: giày ở nhà tiểu, giày ở nhà tiêu, giày ở chỗ
súc miệng.[64] Ba vật chà chân: cát, sỏi, và đá bọt biển.[65]
Hết Phần Nhóm Ba
Tóm lược phần này:
[964]
Trong khi còn hiện tiền,
hợp thời, và ban đêm,
mười năm, và năm năm,
(tâm) thiện, và cảm thọ.
Nền tảng sự cáo tội,
các thẻ, hai khước từ,
quy định, hai điều khác.
Ngu dốt, hậu bán nguyệt,
được phép, vào mùa lạnh,
hội chúng, của hội chúng.
Che giấu, và che kín,
giấu kín không bộc lộ,
chỗ ngụ, việc bị bệnh.
Sự đình chỉ giới bổn,
hành parivāsa,
hành phạt mānatta,
vị parivāsa.
Bên trong, trong ranh giới,
vi phạm, cách khác nữa,
thoát tội, và cách khác,
hai cách hành xử Luật
khi không bị điên cuồng.
Khiển trách, và chỉ dạy,
xua đuổi, và hòa giải,
án treo không nhận tội,
trong việc không sửa chữa,
và không bỏ tà kiến,
cách cứng rắn, hành sự,
tăng thượng giới, đùa giỡn,
sai trái, gây tổn hại,
nuôi mạng, lại tái phạm,
tội tương tợ, chê bai,
lễ Uposatha,
và Pavāraṇā,
sự đồng ý, phát biểu,
và với chỗ riêng biệt,
không nên sống, không cho,
cũng vậy, không thỉnh ý,
không ban lời khuyên bảo,
không nên vấn có hai,
không đáp cũng có hai,
cũng không cho thẩm vấn,
thảo luận, tu bậc trên,
nương nhờ, và sa di.
Ba Uposatha,
ba Pavāraṇā,
đọa cảnh khổ, bất thiện,
nhân thiện, và hạnh kiểm,
bữa ăn của nhóm ba,
không phải là Chánh Pháp,
sự đồng ý, và giày,
vật chà chân, nhóm ba
đây là sự tóm tắt.
[965] Có loại tội vi phạm do lời nói của bản thân, thoát khỏi (tội)
do lời nói của người khác; có loại tội vi phạm do lời nói của người khác, thoát
khỏi (tội) do lời nói của bản thân; có loại tội vi phạm do lời nói của bản
thân, thoát khỏi (tội) do lời nói của bản thân; có loại tội vi phạm do lời nói
của người khác, thoát khỏi (tội) do lời nói của người khác.[66] Có loại tội vi
phạm do thân thoát khỏi (tội) do khẩu, có loại tội vi phạm do khẩu thoát khỏi
(tội) do thân,[67] có loại tội vi phạm do thân thoát khỏi (tội) do thân, có loại
tội vi phạm do khẩu thoát khỏi (tội) do khẩu. Có loại tội vi phạm khi ngủ thoát
khỏi (tội) khi thức, có loại tội vi phạm khi thức thoát khỏi (tội) khi ngủ, có
loại tội vi phạm khi ngủ thoát khỏi (tội) khi ngủ, có loại tội vi phạm khi thức
thoát khỏi (tội) khi thức. Có loại tội vi phạm vô ý thức thoát khỏi (tội) có ý
thức, có loại tội vi phạm có ý thức thoát khỏi (tội) vô ý thức, có loại tội vi
phạm vô ý thức thoát khỏi (tội) vô ý thức, có loại tội vi phạm có ý thức thoát
khỏi (tội) có ý thức.[68] Có loại tội trong lúc vi phạm thì sám hối, trong lúc
sám hối thì vi phạm, có loại tội trong lúc vi phạm thì thoát khỏi (tội), trong
lúc thoát khỏi (tội) thì vi phạm.[69] Có loại tội vi phạm do hành sự (của hội
chúng) thoát khỏi (tội) không do hành sự (của hội chúng), có loại tội vi phạm
không do hành sự thoát khỏi (tội) do hành sự, có loại tội vi phạm do hành sự thoát
khỏi (tội) do hành sự, có loại tội vi phạm không do hành sự thoát khỏi (tội)
không do hành sự.[70]
[966] Bốn sự phát biểu không thánh thiện:[71] không thấy nói đã
thấy, không nghe nói đã nghe, không cảm giác nói đã cảm giác, không nhận thức
nói đã nhận thức. Bốn sự phát biểu thánh thiện: không thấy nói không thấy,
không nghe nói không nghe, không cảm giác nói không cảm giác, không nhận thức
nói không nhận thức. Bốn sự phát biểu không thánh thiện khác nữa: đã thấy nói
không thấy, đã nghe nói không nghe, đã cảm giác nói không cảm giác, đã nhận thức
nói không nhận thức. Bốn sự phát biểu thánh thiện khác nữa: đã thấy nói đã thấy,
đã nghe nói đã nghe, đã cảm giác nói đã cảm giác, đã nhận thức nói đã nhận thức.
Bốn điều pārājika của các tỳ khưu là chung với (có liên quan đến) các tỳ khưu
ni. Bốn điều pārājika của các tỳ khưu ni là không chung với (không có liên quan
đến) các tỳ khưu. Bốn loại vật dụng: có loại vật dụng nên được bảo quản, nên được
gìn giữ, xem là của mình, nên được sử dụng; có loại vật dụng nên được bảo quản,
nên được gìn giữ, không nên xem là của mình, nên được sử dụng; có loại vật dụng
nên được bảo quản, nên được gìn giữ, không nên xem là của mình, không nên được
sử dụng; có loại vật dụng không nên được bảo quản, không nên được gìn giữ,
không xem là của mình, không nên được sử dụng.[72]
[967] Có loại tội vi phạm với sự hiện diện, thoát khỏi (tội) với
sự vắng mặt; có loại tội vi phạm với sự vắng mặt, thoát khỏi (tội) với sự hiện
diện; có loại tội vi phạm với sự hiện diện, thoát khỏi (tội) với sự hiện diện;
có loại tội vi phạm với sự vắng mặt, thoát khỏi (tội) với sự vắng mặt.[73] Có
loại tội vi phạm trong khi không biết, thoát khỏi (tội) trong khi biết; có loại
tội vi phạm trong khi biết, thoát khỏi (tội) trong khi không biết; có loại tội
vi phạm trong khi biết, thoát khỏi (tội) trong khi biết; có loại tội vi phạm
trong khi không biết, thoát khỏi (tội) trong khi không biết.[74]
[968] Vị vi phạm tội với bốn cách biểu hiện: vi phạm do thân, vi
phạm do khẩu, vi phạm do thân do khẩu, vi phạm do tuyên ngôn hành sự. Vị vi phạm
tội với bốn cách biểu hiện khác nữa: ở giữa hội chúng, ở giữa nhóm, trong sự hiện
diện của cá nhân, do sự xuất hiện của phái tính.[75] Vị thoát khỏi tội với bốn
cách biểu hiện: thoát khỏi (tội) do thân, thoát khỏi (tội) do khẩu, thoát khỏi
(tội) do thân do khẩu, thoát khỏi (tội) do tuyên ngôn hành sự. Vị thoát khỏi tội
với bốn cách biểu hiện khác nữa: ở giữa hội chúng, ở giữa nhóm, trong sự hiện
diện của cá nhân, do sự xuất hiện của phái tính.[76] Với sự đạt được, vị (ấy) từ
bỏ (giới tính) trước đây, được xác định trong (giới tính) sau này, các sự yêu cầu
được đình chỉ, các điều quy định được hủy bỏ. Với sự đạt được, vị (ấy) từ bỏ
(giới tính) sau này, được xác định trong (giới tính) trước đây, các sự yêu cầu
được đình chỉ, các điều quy định được hủy bỏ.[77] Bốn sự khiển trách: vị khiển
trách với sự hư hỏng về giới, vị khiển trách với sự hư hỏng về hạnh kiểm, vị
khiển trách với sự hư hỏng về tri kiến, vị khiển trách với sự hư hỏng về nuôi mạng.
Bốn hành phạt parivāsa: hành phạt parivāsa có che giấu, hành phạt parivāsa
không có che giấu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch, hành phạt parivāsa
kết hợp. Bốn hành phạt mānatta: hành phạt mānatta có che giấu, hành phạt
mānatta không có che giấu, hành phạt mānatta nửa tháng, hành phạt mānatta kết hợp.
Bốn sự đứt đêm của vị tỳ khưu hành mānatta: sự cư ngụ chung, sự cư ngụ tách rời,
sự không trình báo, vị thực hành ở nhóm không đủ (tỳ khưu).[78] Bốn pháp dung
hòa (sāmukkaṃsā).[79]
Bốn vật dụng được thọ lãnh: vật dùng đến hết ngọ, vật dùng đến hết đêm, vật
dùng trong bảy ngày, vật dùng đến suốt đời. Bốn vật dơ có tính quan trọng là:
phân, nước tiểu, tro, và đất sét.[80] Bốn loại hành sự: hành sự với lời công bố,
hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì, hành sự với
lời thông báo đến lần thứ tư. Bốn loại hành sự khác nữa: hành sự theo nhóm sai
pháp, hành sự hợp nhất sai pháp, hành sự theo nhóm sai pháp, hành sự hợp nhất
đúng pháp.[81] Bốn sự hư hỏng: sự hư hỏng về giới, sự hư hỏng về hạnh kiểm, sự
hư hỏng về tri kiến, sự hư hỏng về sự nuôi mạng. Bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng
liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng
liên quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.[82] Bốn điều làm ô
uế tập thể: vị tỳ khưu giới hạnh tồi có ác pháp là điều làm ô uế tập thể, vị tỳ
khưu ni giới hạnh tồi có ác pháp là điều làm ô uế tập thể, vị nam cư sĩ giới hạnh
tồi có ác pháp là điều làm ô uế tập thể, vị nữ cư sĩ giới hạnh tồi có ác pháp
là điều làm ô uế tập thể. Bốn điều làm rạng rỡ tập thể: vị tỳ khưu có giới có
thiện pháp là điều làm rạng rỡ tập thể, vị tỳ khưu ni có giới có thiện pháp là
điều làm rạng rỡ tập thể, vị nam cư sĩ có giới có thiện pháp là điều làm rạng rỡ
tập thể, vị nữ cư sĩ có giới có thiện pháp là điều làm rạng rỡ tập thể.
[969] Có loại tội vị vãng lai vi phạm vị thường trú không (vi phạm),
có loại tội vị thường trú vi phạm vị vãng lai không (vi phạm), có loại tội vị
vãng lai luôn cả vị thường trú đều vi phạm, có loại tội vị vãng lai luôn cả vị
thường trú đều không vi phạm.[83] Có loại tội vị xuất hành vi phạm vị thường
trú không (vi phạm), có loại tội vị thường trú vi phạm vị xuất hành không (vi
phạm), có loại tội vị xuất hành luôn cả vị thường trú đều vi phạm, có loại tội
vị xuất hành luôn cả vị thường trú đều không vi phạm.
[970] Có sự khác biệt về sự việc không có sự khác biệt về tội vi
phạm, có sự khác biệt về tội vi phạm không có sự khác biệt về sự việc, có sự
khác biệt về sự việc và có sự khác biệt về tội vi phạm, không có sự khác biệt về
sự việc và không có sự khác biệt về tội vi phạm.[84] Có sự giống nhau về sự việc
không có sự giống nhau về tội vi phạm, có sự giống nhau về tội vi phạm không có
sự giống nhau về sự việc, có sự giống nhau về sự việc và có sự giống nhau về tội
vi phạm, không có sự giống nhau về sự việc và không có sự giống nhau về tội vi
phạm.
[971] Có loại tội thầy tế độ vi phạm đệ tử không (vi phạm), có loại
tội đệ tử vi phạm thầy tế độ không (vi phạm), có loại tội thầy tế độ luôn cả đệ
tử đều vi phạm, có loại tội thầy tế độ và đệ tử đều không vi phạm.[85] Có loại
tội thầy dạy học vi phạm học trò không (vi phạm), có loại tội học trò vi phạm
thầy dạy học không (vi phạm), có loại tội thầy dạy học luôn cả học trò đều vi
phạm, có loại tội thầy dạy học và học trò đều không vi phạm.
[972] Bốn duyên cớ của việc đứt mùa (an cư) mưa không phạm tội:
hoặc là hội chúng bị chia rẽ, hoặc là có những người có ý định chia rẽ hội
chúng, hoặc là có nguy hiểm đến mạng sống, hoặc là có nguy hiểm đến Phạm hạnh.[86]
Bốn ác hạnh về khẩu: lời nói dối, lời nói đâm thọc, lời nói dữ tợn, lời nói nhảm
nhí. Bốn thiện hạnh về khẩu: lời nói thật, lời nói không đâm thọc, lời nói nhỏ
nhẹ, lời nói có mục đích.
[973] Có (trường hợp) trong khi lấy đi vi phạm tội nặng trong khi
ra lệnh vi phạm tội nhẹ,[87] có (trường hợp) trong khi lấy đi vi phạm tội nhẹ
trong khi ra lệnh vi phạm tội nặng, có (trường hợp) trong khi lấy đi lẫn trong
khi ra lệnh vi phạm tội nặng, có (trường hợp) trong khi lấy đi lẫn trong khi ra
lệnh vi phạm tội nhẹ. Có người xứng đáng việc đảnh lễ không xứng đáng việc đứng
dậy, có người xứng đáng việc đứng dậy không xứng đáng việc đảnh lễ, có người xứng
đáng việc đảnh lễ và xứng đáng việc đứng dậy, có người không xứng đáng việc đảnh
lễ cũng không xứng đáng việc đứng dậy.[88] Có người xứng đáng với chỗ ngồi
không xứng đáng việc đảnh lễ, có người xứng đáng việc đảnh lễ không xứng đáng với
chỗ ngồi, có người xứng đáng với chỗ ngồi và xứng đáng việc đảnh lễ, có người
không xứng đáng với chỗ ngồi cũng không xứng đáng việc đảnh lễ.
[974] Có loại tội vi phạm lúc đúng thời không (vi phạm) lúc sái
thời, có loại tội vi phạm lúc sái thời không (vi phạm) lúc đúng thời, có loại tội
vi phạm lúc đúng thời luôn cả lúc sái thời, có loại tội không vi phạm lúc đúng
thời luôn cả lúc sái thời.[89] Có vật thọ lãnh được phép lúc đúng thời không
(được phép) lúc sái thời, có vật thọ lãnh được phép lúc sái thời không (được
phép) lúc đúng thời, có vật thọ lãnh được phép lúc đúng thời luôn cả lúc sái thời,
có vật thọ lãnh không được phép lúc đúng thời luôn cả lúc sái thời.[90] Có loại
tội vi phạm trong các quốc độ ở biên địa không (vi phạm) ở trung tâm, có loại tội
vi phạm trong các quốc độ ở trung tâm không (vi phạm) ở biên địa, có loại tội
vi phạm trong các quốc độ ở biên địa luôn cả ở trung tâm, có loại tội không vi
phạm trong các quốc độ ở biên địa luôn cả ở trung tâm.[91] Có (việc làm) được
phép trong các quốc độ ở biên địa không (được phép) ở trung tâm, có (việc làm)
được phép trong các quốc độ ở trung tâm không (được phép) ở biên địa, có (việc
làm) được phép trong các quốc độ ở biên địa luôn cả ở trung tâm, có (việc làm)
không được phép trong các quốc độ ở biên địa luôn cả ở trung tâm. Có loại tội
vi phạm ở bên trong không (vi phạm) ở bên ngoài, có loại tội vi phạm ở bên
ngoài không (vi phạm) ở bên trong, có loại tội vi phạm ở bên trong luôn cả ở
bên ngoài, có loại tội không vi phạm ở bên trong luôn cả ở bên ngoài. Có loại tội
vi phạm ở bên trong ranh giới không (vi phạm) ở bên ngoài ranh giới, có loại tội
vi phạm ở bên ngoài ranh giới không (vi phạm) ở bên trong ranh giới, có loại tội
vi phạm ở bên trong ranh giới luôn cả ở bên ngoài ranh giới, có loại tội không
vi phạm ở bên trong ranh giới luôn cả ở bên ngoài ranh giới. Có loại tội vi phạm
ở làng không (vi phạm) ở rừng, có loại tội vi phạm ở rừng không (vi phạm) ở
làng, có loại tội vi phạm ở làng luôn cả ở rừng, có loại tội không vi phạm ở
làng luôn cả ở rừng.[92]
[975] Bốn sự khiển trách: do thấy rõ sự việc, do thấy rõ tội vi
phạm, khước từ việc đồng cộng trú, khước từ phận sự đúng đắn. Bốn nhiệm vụ đầu
tiên.[93] Bốn thời điểm thích hợp.[94] Bốn tội pācittiya không vì nguyên nhân
khác.[95] Bốn sự đồng ý của các tỳ khưu.[96] Bốn sự thiên vị: thiên vị vì
thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi. Bốn sự không
thiên vị: không thiên vị vì thương, không thiên vị vì ghét, không thiên vị vì
si mê, không thiên vị vì sợ hãi. Vị tỳ khưu vô liêm sỉ chia rẽ hội chúng hội đủ
bốn đặc tính: trong khi thiên vị vì thương, trong khi thiên vị vì ghét, trong
khi thiên vị vì si mê, trong khi thiên vị vì sợ hãi. Vị tỳ khưu hiền thiện làm
hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ hội đủ bốn đặc tính: trong khi không thiên vị
vì thương, trong khi không thiên vị vì ghét, trong khi không thiên vị vì si mê,
trong khi không thiên vị vì sợ hãi. Không nên hỏi về Luật (ở) vị tỳ khưu hội đủ
bốn đặc tính: thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị
vì sợ hãi. Vị tỳ khưu hội đủ bốn đặc tính: thiên vị vì thương, thiên vị vì
ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi không nên hỏi về Luật. Không nên trả
lời về Luật cho vị tỳ khưu hội đủ bốn đặc tính: thiên vị vì thương, thiên vị vì
ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi. Vị tỳ khưu hội đủ bốn đặc tính:
thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi
không nên trả lời về Luật. Không nên ban cho sự thẩm vấn (về Luật) đến vị tỳ khưu
hội đủ bốn đặc tính: thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê,
thiên vị vì sợ hãi. Không nên thảo luận về Luật với vị tỳ khưu hội đủ bốn đặc
tính: thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ
hãi.
[976] Có loại tội vị bị bệnh vi phạm vị không bị bệnh không (vi
phạm), có loại tội vị không bị bệnh vi phạm vị bị bệnh không (vi phạm), có loại
tội vị bị bệnh luôn cả vị không bị bệnh đều vi phạm, có loại tội vị bị bệnh và
cả vị không bị bệnh đều không vi phạm.[97]
[977] Bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai pháp. Bốn sự đình
chỉ giới bổn Pātimokkha đúng pháp.[98]
Hết Phần Nhóm Bốn
Tóm lược phần này:
[978]
Do lời nói của mình,
do thân, và khi ngủ,
vô ý thức, khi phạm,
do hành sự, phát biểu,
bốn điều giống như thế,
của các vị tỳ khưu,
và các tỳ khưu ni,
vật dụng, và hiện diện,
không biết, do thân thể,
và ở giữa, thoát tội,
có hai cách như thế,
sự đạt được, khiển trách,
các parivāsa
cũng được đề cập đến,
vị hành mānatta,
pháp dung hòa, thọ lãnh,
bốn vật dơ quan trọng,
các hành sự, thêm nữa,
hành sự, và hư hỏng,
tranh sự, giới hạnh tồi,
rạng rỡ, vị vãng lai,
vị (tỳ khưu) xuất hành,
sự việc có khác biệt,
giống nhau, thầy tế độ,
thầy dạy học, duyên cớ,
ác hạnh, và thiện hạnh,
khi lấy, và nhân vật,
xứng đáng với chỗ ngồi.
Đúng thời, và được phép,
các xứ ở biên địa,
được phép, ở bên trong,
trong ranh giới, ở làng,
khiển trách, việc đầu tiên,
thời điểm được thích hợp,
không vì nguyên nhân khác,
sự đồng ý, thiên vị,
luôn cả không thiên vị,
vô liêm sỉ, hiền thiện,
cả hai phần nên vấn,
tương tợ hai phần đáp,
thẩm vấn, và thảo luận,
vị bệnh và đình chỉ.
[979] Năm loại tội. Năm nhóm tội. Năm sự việc đã được rèn luyện.[99]
Năm nghiệp vô gián.[100] Năm hạng người được xác định.[101] Năm tội vi phạm
liên quan đến sự cắt bớt.[102] Vị vi phạm tội với năm biểu hiện.[103] Năm loại
tội vi phạm do duyên nói dối.[104] Vị không thuận theo hành sự với năm biểu hiện:
hoặc là không tự mình thực hiện hành sự, hoặc là không thỉnh mời vị khác, hoặc
không trao ra sự tùy thuận hay (bày tỏ) sự trong sạch, hoặc là phản đối trong
khi hành sự đang được thực hiện, hoặc là có quan điểm là không đúng pháp về
hành sự đã được thực hiện. Vị thuận theo hành sự với năm biểu hiện: hoặc là tự
mình thực hiện hành sự, hoặc là thỉnh mời vị khác, hoặc là trao ra sự tùy thuận
hay (bày tỏ) sự trong sạch, hoặc là không phản đối trong khi hành sự đang được
thực hiện, hoặc là có quan điểm là đúng pháp về hành sự đã được thực hiện. Năm
việc được phép đối với vị tỳ khưu hành pháp (đầu đà) khất thực: đi không phải
xin phép, vật thực dâng chung nhóm, vật thực thỉnh sau, không phải xác định,
không phải chuyển nhượng bữa ăn.[105] Vị tỳ khưu, cho dầu là ác tỳ khưu hay là
vị có pháp bền vững, không được tin tưởng và bị nghi ngờ khi hội đủ năm đặc
tính: hoặc là vị lai vãng với đĩ điếm, hoặc là vị lai vãng với góa phụ, hoặc là
vị lai vãng với gái lỡ thời, hoặc là vị lai vãng với người vô căn, hoặc là vị
lai vãng với tỳ khưu ni. Năm loại dầu ăn: là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa
mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú.[106] Năm loại mỡ thú: mỡ gấu, mỡ cá, mỡ cá sấu,
mỡ heo rừng, mỡ lừa.[107] Năm sự mất mát: mất mát về thân quyến, mất mát về của
cải, mất mát vì bệnh hoạn, mất mát về giới, mất mát về tri kiến. Năm sự thành tựu:
thành tựu về thân quyến, thành tựu về của cải, thành tựu về vô bệnh, thành tựu
về giới, thành tựu về tri kiến. Năm trường hợp chấm dứt việc nương nhờ ở thầy tế
độ: thầy tế độ bỏ đi, hoặc là hoàn tục, hoặc là từ trần, hoặc là qua bên nhóm
khác, hoặc chính sự ra lệnh (đuổi đi) là thứ năm.[108] Năm hạng người không nên
cho tu lên bậc trên: người chưa đủ hai mươi tuổi, người có phần cơ thể (bàn
tay, v.v...) bị cắt đứt, người không thành tựu về thân thể, người đã làm sai
trái trong hành động, người không có đầy đủ (y bát). Năm loại vải quăng bỏ (paṃsukūla): loại ở bãi tha ma, bỏ ở ngoài cửa
tiệm, bị chuột gặm, bị mối nhấm, bị lửa cháy. Năm loại vải quăng bỏ khác nữa:
loại bị bò nhai, bị dê nhai, y nơi bảo tháp, loại thuộc về lễ đăng quang (của đức
vua), vải dành cho tôi tớ. Năm sự lấy trộm: lấy đi theo cách trộm cắp, lấy đi bằng
bạo lực, lấy đi có tính toán, lấy đi bằng cách che giấu, lấy đi theo lối (tráo)
thăm.[109] Năm hạng cướp lớn hiện hữu được biết đến ở thế gian.[110] Năm vật
không được phân tán.[111] Năm vật không được phân chia.[112] Năm loại tội sanh
khởi do thân không do khẩu không do ý. Năm loại tội sanh khởi do thân và do khẩu
không do ý. Năm loại tội đưa đến việc sám hối. Năm loại hội chúng.[113] Năm
cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha.[114] Trong các quốc độ vùng biên giới có thể
cho tu lên bậc trên với nhóm có vị thứ năm là vị rành rẽ về Luật.[115] Năm sự
thuận lợi trong việc thành tựu Kaṭhina.[116] Năm loại hành sự.[117] Năm loại tội
vi phạm (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba.[118] Vị trong khi lấy vật không được
cho phạm tội pārājika với năm yếu tố.[119] Vị trong khi lấy vật không được cho
phạm tội thullaccaya với năm yếu tố. Vị trong khi lấy vật không được cho phạm tội
dukkaṭa với năm yếu tố. Năm vật không đúng phép
không nên thọ dụng: vật chưa được cho, vật không được biết rõ, vật chưa làm
thành được phép, vật chưa được thọ lãnh, vật chưa được làm thành đồ thừa. Năm vật
đúng phép nên thọ dụng: vật đã được cho, vật đã được biết rõ, vật đã được làm
thành được phép, vật đã được thọ lãnh, vật đã được làm thành đồ thừa. Năm sự bố
thí không có phước báu được xem là có phước báu thuộc về thế gian: bố thí chất
say, bố thí đến hội hè (nhảy múa), bố thí người nữ, bố thí bò đực (vào giữa đàn
bò), bố thí tranh ảnh (gợi cảm). Năm điều đã được sanh lên khó trừ diệt: tham
ái đã được sanh lên khó trừ diệt, sân đã được sanh lên khó trừ diệt, si đã được
sanh lên khó trừ diệt, sự nói huyên thuyên đã được sanh lên khó trừ diệt, tâm vẩn
vơ đã được sanh lên khó trừ diệt. Năm điều lợi ích trong việc quét chổi: làm lắng
dịu tâm của bản thân, làm lắng dịu tâm của người khác, chư thiên được hoan hỷ, tích lũy nghiệp đưa đến chốn an vui, khi
thân hoại chết đi được sanh về nơi tốt đẹp, cõi trời, trần thế. Năm điều lợi
ích khác nữa trong việc quét chổi: làm lắng dịu tâm của bản thân, làm lắng dịu
tâm của người khác, chư thiên được hoan hỷ, lời giáo huấn của bậc Đạo Sư đã được thực
hành, người đời sau thực hành xu hướng theo quan điểm đúng đắn.
[980] Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều:
vị không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của mình, vị không đưa ra sự giới hạn
cho lời nói của người khác, sau khi đã không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của
mình, sau khi đã không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của người khác, vị bảo thực
hiện (hành sự) sai pháp với sự không khẳng định. Vị rành rẽ về Luật được xem là
“vị thông thái” khi hội đủ năm điều: vị đưa ra sự giới hạn cho lời nói của
mình, vị đưa ra sự giới hạn cho lời nói của người khác, sau khi đã đưa ra sự giới
hạn cho lời nói của mình, sau khi đã đưa ra sự giới hạn cho lời nói của người
khác, vị bảo thực hiện (hành sự) đúng pháp với sự khẳng định. Vị rành rẽ về Luật
bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa: vị không biết về tội, vị
không biết gốc của tội, vị không biết nguồn sanh tội, vị không biết sự đoạn diệt
của tội, vị không biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của tội.[120] Vị rành
rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ năm điều (khác nữa): vị biết
về tội, vị biết gốc của tội, vị biết nguồn sanh tội, vị biết sự đoạn diệt của tội,
vị biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của tội. Vị rành rẽ về Luật bị xem là
“kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa: vị không biết về sự tranh tụng, vị
không biết nguồn sanh khởi của sự tranh tụng, vị không biết nhân sanh sự tranh
tụng, vị không biết sự đoạn diệt của sự tranh tụng, vị không biết sự thực hành
đưa đến sự đoạn diệt của sự tranh tụng.[121] Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị
thông thái” khi hội đủ năm điều (khác nữa): vị biết về sự tranh tụng, vị biết
nguồn sanh khởi của sự tranh tụng, vị biết nhân sanh sự tranh tụng, vị biết sự
đoạn diệt của sự tranh tụng, vị biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của sự
tranh tụng. Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác
nữa: vị không biết về sự việc, vị không biết về sự mở đầu, vị không biết về sự
quy định, vị không biết về sự quy định thêm, vị không biết về phương thức của lối
trình bày mạch lạc.[122] Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội
đủ năm điều (khác nữa): vị biết về sự việc, vị biết về sự mở đầu, vị biết về sự
quy định, vị biết về sự quy định thêm, vị biết về phương thức của lối trình bày
mạch lạc. Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa:
vị không biết về lời đề nghị, vị không biết cách thực hiện với lời đề nghị, vị
không thiện xảo về phần (cần trình bày) trước tiên, vị không thiện xảo về các
phần kế tiếp, vị không biết về thời điểm.[123] Vị rành rẽ về Luật được xem là
“vị thông thái” khi hội đủ năm điều (khác nữa): vị biết về lời đề nghị, vị biết
cách thực hiện với lời đề nghị, vị thiện xảo về phần (cần trình bày) trước
tiên, vị thiện xảo về các phần kế tiếp, vị biết về thời điểm. Vị rành rẽ về Luật
bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa: vị không biết về sự phạm tội
hay không phạm tội; vị không biết tội nhẹ hay nặng; vị không biết tội còn dư
sót hay không còn dư sót; vị không biết tội xấu xa hay không xấu xa; vị không
khéo được kế thừa theo tuần tự từ các vị thầy, không khéo chú ý, và không khéo
suy xét. Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ năm điều
(khác nữa): vị biết về sự phạm tội hay không phạm tội; vị biết tội nhẹ hay nặng;
vị biết tội còn dư sót hay không còn dư sót; vị biết tội xấu xa hay không xấu
xa; vị khéo được kế thừa theo tuần tự từ các vị thầy, khéo chú ý, và khéo suy
xét. Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa: vị
không biết về sự phạm tội hay không phạm tội; vị không biết tội nhẹ hay nặng; vị
không biết tội còn dư sót hay không còn dư sót; vị không biết tội xấu xa hay
không xấu xa; đối với vị này cả hai bộ giới bổn Pātimokkha không khéo được truyền
thừa với chi tiết, không khéo được phân tích, không khéo được ứng dụng, không
khéo được xác định theo từng điều học theo từng từ ngữ. Vị rành rẽ về Luật được
xem là “vị thông thái” khi hội đủ năm điều (khác nữa): vị biết về sự phạm tội
hay không phạm tội; vị biết tội nhẹ hay nặng; vị biết tội còn dư sót hay không
còn dư sót; vị biết tội xấu xa hay không xấu xa; đối với vị này cả hai bộ giới
bổn Pātimokkha khéo được truyền thừa với chi tiết, khéo được phân tích, khéo được
ứng dụng, khéo được xác định theo từng điều theo từng từ ngữ. Vị rành rẽ về Luật
bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ năm điều khác nữa: vị không biết về sự phạm tội
hay không phạm tội, vị không biết tội nhẹ hay nặng, vị không biết tội còn dư
sót hay không còn dư sót, vị không biết tội xấu xa hay không xấu xa, vị không
thiện xảo về việc phán quyết trong sự tranh tụng. Vị rành rẽ về Luật được xem
là “vị thông thái” khi hội đủ năm điều (khác nữa): vị biết về sự phạm tội hay
không phạm tội, vị biết tội nhẹ hay nặng, vị biết tội còn dư sót hay không còn
dư sót, vị biết tội xấu xa hay không xấu xa, vị thiện xảo về việc phán quyết
trong sự tranh tụng.
[981] Năm hạng (đầu đà) sống ở rừng: là vị (đầu đà) sống ở rừng
do bản tánh ngu khờ do bản tánh si mê; là vị (đầu đà) sống ở rừng có ước muốn xấu
xa bị thúc giục bởi ước muốn; là vị (đầu đà) sống ở rừng do điên khùng do mất
trí; là vị (đầu đà) sống ở rừng (nghĩ rằng): “Được chư Phật và chư Thinh Văn của
đức Phật ngợi khen;” và cũng có vị (đầu đà) sống ở rừng chính vì sự ham muốn
ít, chính vì sự tự biết đủ, chính vì sự đoạn trừ, chính vì sự tách ly, chính vì
sự lợi ích của điều này. Năm hạng (đầu đà) đi khất thực. Năm hạng (đầu đà) mặc
y paṃsukāla. Năm hạng (đầu đà) ngụ ở gốc cây. Năm
hạng (đầu đà) ngụ ở mộ địa. Năm hạng (đầu đà) ngụ ở ngoài trời. Năm hạng (đầu
đà) chỉ sử dụng ba y. Năm hạng (đầu đà) đi khất thực theo từng nhà. Năm hạng (đầu
đà) về oai nghi ngồi (không nằm). Năm hạng (đầu đà) ngụ chỗ ở theo chỉ định.
Năm hạng (đầu đà) một chỗ ngồi (khi thọ thực). Năm hạng (đầu đà) không ăn vật
thực dâng sau. Năm hạng (đầu đà) thọ thực trong bình bát: là vị (đầu đà) thọ thực
trong bình bát do bản tánh ngu khờ do bản tánh si mê; là vị (đầu đà) thọ thực
trong bình bát có ước muốn xấu xa bị thúc giục bởi ước muốn; là vị (đầu đà) thọ
thực trong bình bát do điên khùng do mất trí; là vị (đầu đà) thọ thực trong
bình bát (nghĩ rằng): “Được chư Phật và chư Thinh Văn của đức Phật ngợi khen;”
và cũng có vị (đầu đà) thọ thực trong bình bát chính vì sự ham muốn ít, chính
vì sự tự biết đủ, chính vì sự đoạn trừ, chính vì sự tách ly, chính vì sự lợi
ích của điều này.
[982] Vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện không nên sống không nương
nhờ: vị không biết về lễ Uposatha, vị không biết về hành sự của lễ Uposatha, vị
không biết về giới bổn Pātimokkha, vị không biết về cách đọc tụng của giới bổn
Pātimokkha, vị chưa đủ năm năm.[124] Vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện được sống
không nương nhờ: vị biết về lễ Uposatha, vị biết về hành sự của lễ Uposatha, vị
biết về giới bổn Pātimokkha, vị biết về cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha,
vị năm năm hoặc hơn năm năm. Vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên
sống không nương nhờ: vị không biết về lễ Pavāraṇā, vị không biết về hành sự của lễ Pavāraṇā, vị không biết về giới bổn Pātimokkha, vị
không biết về cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha, vị chưa đủ năm năm. Vị tỳ
khưu hội đủ năm điều kiện (khác nữa) được sống không nương nhờ: vị biết về lễ
Pavāraṇā, vị biết về hành sự của lễ Pavāraṇā, vị biết về giới bổn Pātimokkha, vị biết về
cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha, vị năm năm hoặc hơn năm năm. Vị tỳ khưu
hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: vị không biết về
sự phạm tội hay không phạm tội, vị không biết tội nhẹ hay nặng, vị không biết tội
còn dư sót hay không còn dư sót, vị không biết tội xấu xa hay không xấu xa, vị
chưa đủ năm năm. Vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện (khác nữa) được sống không
nương nhờ: vị biết về sự phạm tội hay không phạm tội, vị biết tội nhẹ hay nặng,
vị biết tội còn dư sót hay không còn dư sót, vị biết tội xấu xa hay không xấu
xa, vị năm năm hoặc hơn năm năm.
Vị tỳ khưu ni hội đủ năm điều kiện không nên sống không nương nhờ:
vị không biết về lễ Uposatha, vị không biết về hành sự của lễ Uposatha, vị
không biết về giới bổn Pātimokkha, vị không biết về cách đọc tụng của giới bổn
Pātimokkha, vị chưa đủ năm năm. Vị tỳ khưu ni hội đủ năm điều kiện được sống
không nương nhờ: vị biết về lễ Uposatha, vị biết về hành sự của lễ Uposatha, vị
biết về giới bổn Pātimokkha, vị biết về cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha,
vị năm năm hoặc hơn năm năm. Vị tỳ khưu ni hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên sống không nương nhờ: vị không biết về lễ Pavāraṇā, vị không biết về hành sự của lễ Pavāraṇā, vị không biết về giới bổn Pātimokkha, vị
không biết về cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha, vị chưa đủ năm năm. Vị tỳ
khưu ni hội đủ năm điều kiện (khác nữa) được sống không nương nhờ: vị biết về lễ
Pavāraṇā, vị biết về hành sự của lễ Pavāraṇā, vị biết về giới bổn Pātimokkha, vị biết về
cách đọc tụng của giới bổn Pātimokkha, vị năm năm hoặc hơn năm năm. Vị tỳ khưu
ni hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: vị không biết
về sự phạm tội hay không phạm tội, vị không biết tội nhẹ hay nặng, vị không biết
tội còn dư sót hay không còn dư sót, vị không biết tội xấu xa hay không xấu xa,
vị chưa đủ năm năm. Vị tỳ khưu ni hội đủ năm điều kiện (khác nữa) được sống
không nương nhờ: vị biết về sự phạm tội hay không phạm tội, vị biết tội nhẹ hay
nặng, vị biết tội còn dư sót hay không còn dư sót, vị biết tội xấu xa hay không
xấu xa, vị năm năm hoặc hơn năm năm.
[983] Năm điều bất lợi ở vị không được hoan hỷ (do đã tạo nghiệp bất thiện): ngay cả bản
thân cũng khiển trách lấy bản thân, các bậc trí quở trách sau khi đã xem xét,
tiếng đồn xấu xa lan rộng, bị mê mờ khi từ trần, khi thân hoại chết đi bị sanh
vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Năm điều lợi ích ở vị được hoan hỷ (do đã tạo nghiệp thiện): chính bản thân
không khiển trách bản thân, các bậc trí ngợi khen sau khi đã xem xét, tiếng đồn
tốt đẹp lan rộng, không bị mê mờ khi từ trần, khi thân hoại chết đi được sanh về
nơi tốt đẹp, cõi trời, trần thế. Năm điều bất lợi khác nữa ở vị không được hoan
hỷ (do đã tạo nghiệp bất thiện): những người
chưa có đức tin không an trú vào đức tin, làm thay đổi (niềm tin) của một số
người đã có đức tin, lời giáo huấn của bậc Đạo Sư đã không được thực hành, người
đời sau không thực hành xu hướng theo quan điểm đúng đắn, tâm của vị ấy không
được an trú. Năm điều lợi ích ở vị được hoan hỷ (do đã tạo nghiệp thiện): những người chưa
có đức tin an trú vào đức tin, làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức
tin. lời giáo huấn của bậc Đạo Sư đã được thực hành, người đời sau thực hành xu
hướng theo quan điểm đúng đắn, tâm của vị ấy được an trú. Năm điều bất lợi cho
vị thường tới lui các gia đình: vị vi phạm trong việc đi không xin phép, vi phạm
việc ngồi ở chỗ kín đáo, vi phạm việc ngồi ở chỗ được che khuất, vi phạm trong
khi giảng Pháp quá năm sáu câu cho người nữ, và sống có nhiều tầm cầu về ái dục.
Năm điều bất lợi của vị tỳ khưu thường tới lui các gia đình: vị trong khi sống
quá nhiều thời gian thân cận các gia đình có sự nhìn thấy người nữ thường
xuyên, trong khi có sự nhìn thấy có sự xúc chạm, trong khi có sự xúc chạm có sự
thân mật, trong khi có sự thân mật có sự ô nhiễm, điều này được dự đoán cho vị
tỳ khưu có tâm bị khởi dục: hoặc là sẽ hành Phạm hạnh không được hoan hỷ, hoặc là sẽ vi phạm tội có ô nhiễm nào đó,
hoặc là sẽ từ bỏ sự học tập và sống đời tầm thường.
[984] Năm sự sanh ra bởi mầm giống: mầm giống từ rễ, mầm giống từ
thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt là loại
thứ năm.[125] Trái cây nên được thọ dụng với năm cách làm cho được phép đối với
sa-môn: được hoại bằng lửa, được hoại bằng dao, được hoại bằng móng tay, không
có hột, hột được lấy ra khỏi là cách thứ năm.[126]
[985] Năm cách làm cho trong sạch: sau khi đọc tụng phần mở đầu
(nidāna), nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách làm
cho trong sạch thứ nhất. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều
pārājika, nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách làm
cho trong sạch thứ nhì. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều
pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa, nên thông báo phần còn lại bằng
cách đã được nghe; đây là cách làm cho trong sạch thứ ba. Sau khi đọc tụng phần
mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa, sau khi đọc tụng hai điều
aniyata, nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách làm cho
trong sạch thứ tư. (Đọc tụng) một cách đầy đủ là cách thứ năm.[127] Năm cách
làm cho trong sạch khác nữa: sự đọc tụng giới bổn, lễ Uposatha với sự (bày tỏ)
trong sạch, lễ Uposatha với sự chú nguyện, lễ Uposatha hợp nhất, lễ Pavāraṇā là thứ năm.
[986] Năm điều lợi ích cho vị rành rẽ về Luật: Giới uẩn của bản
thân khéo được gìn giữ khéo được hộ trì, là nơi nương tựa của các vị thường hay
có sự ăn năn, là vị phát biểu ở giữa hội chúng với sự tự tin, là vị khuất phục
những kẻ đối nghịch một cách khéo léo đúng theo Pháp, là vị thực hành vì sự tồn
tại của Chánh Pháp. Năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Năm sự đình
chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
Hết Phần Nhóm Năm
Tóm lược phần này:
[987]
Loại tội, các nhóm tội,
được rèn luyện, vô gián,
các hạng người, cắt bớt,
vi phạm, các nguyên do,
vị thuận, và không thuận,
được phép, không tin tưởng,
dầu ăn, và mỡ thú,
mất mát, và thành tựu,
chấm dứt, với hạng người,
mộ địa, bị bò nhai,
trộm cắp, gọi là cướp,
không phân tán, phân chia,
do thân, do thân khẩu,
sự sám hối, hội chúng,
đọc tụng, vùng biên địa,
và với Kaṭhina,
về các loại hành sự,
cho đến lần thứ ba,
tội pārājika,
trọng tội, và tác ác,
không đúng phép, đúng phép,
không phước báu, khó diệt,
chổi quét, các điều khác,
lời nói, và tội nữa,
sự tranh tụng, sự việc,
lời đề nghị, tội phạm,
và luôn cả hai phần,
các tội nhẹ nặng ấy
hãy biết rõ tối sáng,
ở rừng, và khất thực,
y paṃsukūla,
cội cây, và mộ địa,
ở ngoài trời, và y,
theo tuần tự, vị ngồi,
chỗ ở theo chỉ định,
ngăn vật thực dâng sau,
và chỉ thọ trong bát.
Lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
có tội và không tội,
những điều tối sáng này
của các tỳ khưu ni
các điều ấy cũng vậy.
Hoan hỷ, không hoan hỷ,
cũng giống y như thế
các điều khác có hai,
tới lui các gia đình,
mất quá nhiều thời gian.
(Sanh ra từ) mầm giống,
được phép cho sa-môn,
làm cho được trong sạch,
và cả các điều khác,
theo Luật, và sai Pháp,
đúng Pháp cũng như thế
đã được đề cập đến,
thuần túy là nhóm năm
như thế được chấm dứt.
[988] Sáu sự không kính trọng. Sáu sự kính trọng. Sáu sự việc đã
được rèn luyện.[128] Sáu sự thực hành đúng đắn.[129] Sáu nguồn sanh tội. Sáu tội
vi phạm liên quan đến cắt bớt.[130] Vị vi phạm tội do sáu biểu hiện.[131] Sáu sự
lợi ích cho vị rành rẽ về Luật.[132] Sáu điều tối đa.[133] Nên xa lìa ba y sáu
đêm.[134] Sáu loại y.[135] Sáu loại thuốc nhuộm (y).[136] Sáu loại tội vi phạm
sanh lên do thân và do ý không do khẩu. Sáu loại tội vi phạm sanh lên do khẩu
và do ý không do thân. Sáu loại tội vi phạm sanh lên do thân do khẩu và do ý.
Sáu loại hành sự.[137] Sáu nguyên nhân tranh cãi.[138] Sáu nguyên nhân khiển
trách.[139] Sáu pháp cần ghi nhớ. Chiều dài sáu gang tay theo gang tay của đức
Thiện Thệ.[140] Chiều rộng sáu gang tay.[141] Sáu trường hợp chấm dứt việc
nương nhờ ở thầy dạy học.[142] Sáu điều quy định thêm trong việc tắm.[143] Vị
ra đi sau khi cầm lấy y chưa được làm xong.[144] Vị ra đi sau khi mang theo y
chưa được làm xong.
[989] Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện nên ban phép tu lên bậc
trên, nên ban cho phép nương nhờ, nên để sa di phục vụ: là vị thành tựu vô học
giới uẩn, là vị thành tựu vô học định uẩn, là vị thành tựu vô học tuệ uẩn, là vị
thành tựu vô học giải thoát uẩn, là vị thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn,
là vị mười năm hoặc hơn mười năm.[145] Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa
nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban cho phép nương nhờ, nên để sa di phục vụ:
là vị tự mình thành tựu vô học giới uẩn và giúp cho vị khác đạt được vô học giới
uẩn, là vị tự mình thành tựu vô học định uẩn và giúp cho vị khác đạt được vô học
định uẩn, là vị tự mình thành tựu vô học tuệ uẩn và giúp cho vị khác đạt được
vô học tuệ uẩn, là vị tự mình thành tựu vô học giải thoát uẩn và giúp cho vị
khác đạt được vô học giải thoát uẩn, là vị tự mình thành tựu vô học giải thoát
tri kiến uẩn và giúp cho vị khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn, là vị
mười năm hoặc hơn mười năm. Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên ban cho phép nương nhờ, nên để sa di phục vụ: là vị
có đức tin, là vị có sự hổ thẹn (tội lỗi), là vị có sự ghê sợ (tội lỗi), là vị
nỗ lực tinh tấn, là vị có niệm được thiết lập, là vị mười năm hoặc hơn mười
năm. Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên
ban cho phép nương nhờ, nên để sa di phục vụ: là vị không bị hư hỏng về giới
thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh,
không bị hư hỏng về tri kiến trong tri kiến sái quấy, là vị nghe nhiều, là vị
có trí tuệ, là vị mười năm hoặc hơn mười năm. Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện
khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban cho phép nương nhờ, nên để sa di
phục vụ: là vị có khả năng chăm sóc hoặc kiếm người chăm sóc cho đệ tử hoặc học
trò bị bệnh, (có khả năng) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử
hay học trò) có sự không hoan hỷ đã sanh khởi, (có khả năng) giải tỏa hoặc nhờ vị khác giải tỏa
đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, là vị biết về
sự phạm tội, là vị biết cách thoát khỏi tội, là vị mười năm hoặc hơn mười năm.
Vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban
cho phép nương nhờ, nên để sa di phục vụ: là vị có khả năng để huấn luyện các
điều học thuộc về phận sự căn bản, (có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc
về phần đầu của Phạm hạnh, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp, để hướng dẫn
về Thắng Luật, (có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được
sanh khởi cho đệ tử hay học trò, là vị mười năm hoặc hơn mười năm. Vị tỳ khưu hội
đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban cho phép nương
nhờ, nên để sa di phục vụ: là vị biết về sự phạm tội; biết về sự không phạm tội;
biết về sự phạm tội nhẹ; biết về sự phạm tội nặng; đối với vị này hai bộ giới bổn
Pātimokkha khéo được truyền thừa với chi tiết, khéo được phân tích, khéo được ứng
dụng, khéo xác định theo từng điều hoặc từng từ ngữ; là vị mười năm hoặc hơn mười
năm.
[990] Sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.[146] Sáu sự
đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
Hết Phần Nhóm Sáu
Tóm lược phần này:
[991]
Không kính, và kính trọng,
được rèn luyện, đúng đắn,
nguồn sanh khởi, cắt bớt,
biểu hiện, với lợi ích,
tối đa, và sáu đêm,
y, và các thuốc nhuộm,
do thân và do ý,
do khẩu và do ý,
do thân khẩu và ý,
hành sự, và tranh cãi,
khiển trách, và chiều dài,
chiều rộng, việc nương nhờ,
chế định thêm, cầm lấy,
mang đi cũng như vậy.
Vô học, giúp đạt được,
đức tin, tăng thượng giới,
bị bệnh, hạnh căn bản,
về các tội vi phạm,
sai pháp và đúng pháp.
[992] Bảy loại tội. Bảy nhóm tội. Bảy sự việc đã được rèn luyện.
Bảy sự thực hành đúng đắn.[147] Bảy việc phán xử theo tội đã được thừa nhận
không đúng Pháp.[148] Bảy việc phán xử theo tội đã được thừa nhận đúng Pháp.
Không phạm tội để đi với việc cần phải làm trong bảy ngày liên quan đến bảy hạng
người.[149] Bảy sự lợi ích cho vị rành rẽ về Luật.[150] Bảy điều tối đa. Khi rạng
đông vào ngày thứ bảy bị phạm vào nissaggiya.[151] Bảy cách dàn xếp. Bảy hành sự.[152]
Bảy loại hạt chưa xay.[153] Chiều rộng là bảy (gang) ở bên trong.[154] Bảy điều
quy định thêm về bữa ăn dâng theo nhóm.[155] Sau khi thọ lãnh các loại dược phẩm,
nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày.[156] Vị ra đi cầm lấy y đã
làm xong.[157] Vị ra đi mang theo y đã làm xong. Trường hợp vị tỳ khưu không có
tội cần phải được nhìn nhận.[158] Trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được
nhìn nhận. Trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được sửa chữa. Bảy sự đình chỉ
giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[993] Vị tỳ khưu là vị rành rẽ về Luật hội đủ bảy điều kiện: là vị
biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm tội
nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; là vị có giới sống thu thúc trong sự thu
thúc của giới bổn Pātimokkha, thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi
trong các tội nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các điều học; là vị đạt được
theo ước muốn, đạt được không khó khăn, đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú
ngay trong hiện tại của bốn thiền là trạng thái tâm trong sạch nhất; và do sự
diệt tận các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự
mình thực chứng sự giải thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu
hoặc, rồi thể nhập và an trú.
Vị tỳ khưu là vị rành rẽ về Luật hội đủ bảy điều kiện khác nữa:
là vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; là vị nghe nhiều, nắm giữ điều đã
nghe, tích lũy điều đã nghe, các pháp nào là toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn
giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng
giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, các pháp có hình thức
như thế được nghe nhiều, được nắm giữ, được tích lũy bằng lời nói, được suy xét
bằng ý, được khéo phân tích bằng tri kiến; là vị đạt được theo ước muốn, đạt được
không khó khăn, đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú ngay trong hiện tại của
bốn thiền là trạng thái tâm trong sạch nhất; và do sự diệt tận các lậu hoặc, vị
(ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực chứng sự giải
thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi thể nhập và
an trú.
Vị tỳ khưu là vị rành rẽ về Luật hội đủ bảy điều kiện khác nữa:
là vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; đối với vị này cả hai bộ giới bổn
Pātimokkha khéo được truyền thừa với chi tiết, khéo được phân tích, khéo được ứng
dụng, khéo được xác định theo từng điều theo từng từ ngữ; là vị đạt được theo ước
muốn, đạt được không khó khăn, đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú ngay
trong hiện tại của bốn thiền là trạng thái tâm trong sạch nhất; và do sự diệt tận
các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực
chứng sự giải thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi
thể nhập và an trú.
Vị tỳ khưu là vị rành rẽ về Luật hội đủ bảy điều kiện khác nữa: là
vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; vị (ấy) nhớ lại nhiều kiếp sống trước
như là một lần sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh,
...(như trên)..., mười lần sanh, hai mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi
lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm
ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp:
“Vào kiếp sống ấy, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức
ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, ta
đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại chỗ kia. Ở nơi kia, ta đã có tên như vầy,
dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm khổ và lạc như
vầy, có tuổi thọ như vầy. Từ nơi kia, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại nơi
này,” như thế vị (ấy) nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét cá biệt và đại
cương; với thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, vị (ấy) nhìn thấy chúng
sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu
xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ, vị (ấy) biết được rằng chúng sanh đều
đi theo nghiệp tương ứng: “Quả đúng như vậy, những chúng sanh đang hiện hữu
(bhonto) này có hành động xấu xa bằng thân, có hành động xấu xa bằng lời nói,
có suy nghĩ xấu xa bằng ý, vu khống các bậc Thánh, theo tà kiến, tán thành các
hành động do tà kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ bị sanh vào bất hạnh,
cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Trái lại, những chúng sanh đang hiện hữu (bhonto)
này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động tốt đẹp bằng lời nói, có suy
nghĩ tốt đẹp bằng ý, không vu khống các bậc Thánh, theo chánh kiến, tán thành
các hành động do chánh kiến, khi tan rã thân xác và chết đi, họ được sanh vào
chốn an vui, cõi trời, trần thế,” như thế với thiên nhãn thuần tịnh vượt trội
loài người, vị (ấy) nhìn thấy chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở
thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ,
vị (ấy) biết được rằng chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng; và do sự diệt tận
các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực
chứng sự giải thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi
thể nhập và an trú.
Vị rành rẽ về Luật được sáng chói hội đủ bảy điều kiện: là vị biết
về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm tội nhẹ;
là vị biết về sự phạm tội nặng; là vị có giới ...(như trên)... thọ trì và thực
hành trong các điều học; là vị đạt được theo ước muốn, đạt được không khó khăn,
đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú ngay trong hiện tại của bốn thiền là trạng
thái tâm trong sạch nhất; và do sự diệt tận các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng
trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực chứng sự giải thoát của tâm sự giải
thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi thể nhập và an trú.
Vị rành rẽ về Luật được sáng chói hội đủ bảy điều kiện khác nữa:
là vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; là vị nghe nhiều, ...(như trên)..., được
khéo phân tích bằng tri kiến; là vị đạt được theo ước muốn, đạt được không khó
khăn, đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú ngay trong hiện tại của bốn thiền
là trạng thái tâm trong sạch nhất; và do sự diệt tận các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ
vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực chứng sự giải thoát của
tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi thể nhập và an trú.
Vị rành rẽ về Luật được sáng chói hội đủ bảy điều kiện khác nữa:
là vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; đối với vị này cả hai bộ giới bổn
Pātimokkha khéo được truyền thừa với chi tiết, khéo được phân tích, khéo được ứng
dụng, khéo được xác định theo từng điều theo từng từ ngữ; là vị đạt được theo ước
muốn, đạt được không khó khăn, đạt được không khổ nhọc của sự lạc trú ngay
trong hiện tại của bốn thiền là trạng thái tâm trong sạch nhất; và do sự diệt tận
các lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực
chứng sự giải thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi
thể nhập và an trú.
Vị rành rẽ về Luật được sáng chói hội đủ bảy điều kiện khác nữa:
là vị biết về sự phạm tội; là vị biết về sự không phạm tội; là vị biết về sự phạm
tội nhẹ; là vị biết về sự phạm tội nặng; vị (ấy) nhớ lại nhiều kiếp sống trước
...(như trên)...; với thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, vị (ấy) nhìn
thấy chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp
đẽ, xấu xí, đến chốn an vui, (hay) đọa vào cõi khổ, vị (ấy) biết được rằng
chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng ...(như trên)...; và do sự diệt tận các
lậu hoặc, vị (ấy) nhờ vào thắng trí, ngay trong thời hiện tại tự mình thực chứng
sự giải thoát của tâm sự giải thoát của tuệ là sự không còn lậu hoặc, rồi thể
nhập và an trú.
[994] Bảy pháp không tốt đẹp: là vị không có đức tin, là vị không
hổ thẹn (tội lỗi), là vị không ghê sợ (tội lỗi), là vị ít nghe, là vị biếng
nhác, là vị có niệm bị quên lãng, là vị có tuệ kém. Bảy pháp tốt đẹp: là vị có
đức tin, là vị có sự hổ thẹn (tội lỗi), là vị có sự ghê sợ (tội lỗi), là vị
nghe nhiều, là vị có sự nỗ lực tinh cần, là vị có niệm được thiết lập, là vị có
trí tuệ.
Hết Phần Nhóm Bảy
Tóm lược phần này:
[995]
Loại tội, các nhóm tội,
được rèn luyện, đúng đắn,
sai pháp, và đúng pháp,
không phạm tội, bảy ngày,
lợi ích, và tối đa,
rạng đông, cách dàn xếp,
hành sự, hạt chưa xay,
chiều rộng, ăn theo nhóm,
tối đa là bảy ngày,
cầm lấy (y đã làm),
mang theo cũng như thế,
không nên, nên, và nên,
sai pháp, và đúng pháp.
Bốn hạng rành rẽ Luật,
bốn tỳ khưu sáng chói,
bảy pháp không tốt đẹp,
bảy pháp tốt được giảng.
[996] Vị nhận thức được tám điều lợi ích không nên phạt án treo vị
tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội.[159] Vị nhận thức được tám điều lợi
ích nên sám hối tội ấy vì niềm tin của các vị khác.[160] Tám tội vi phạm (khi
được nhắc nhở) cho đến lần thứ ba.[161] Vị làm hư hỏng các gia đình với tám biểu
hiện.[162] Tám tiêu đề về việc phát sanh y.[163] Tám tiêu đề về việc thâu hồi
Kaṭhina.[164] Tám loại thức uống.[165]
Devadatta có tâm bị xâm chiếm, bị ngự trị bởi tám điều không đúng chánh Pháp,
là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp,
không thể khác được.[166] Tám pháp của thế gian. Tám Trọng Pháp.[167] Tám tội
pāṭidesanīya.[168] Tám chi phần của lời nói dối.[169]
Tám chi phần của ngày Uposatha (Bát quan trai giới). Tám chi phần của người sứ
giả.[170] Tám cách thực hành của ngoại đạo. Tám pháp kỳ diệu phi thường trong
biển cả.[171] Tám pháp kỳ diệu phi thường trong Pháp và Luật này.[172] Tám vật
không phải là đồ thừa.[173] Tám vật là đồ thừa. Khi rạng đông vào ngày thứ tám
thì phạm vào nissaggiya.[174] Tám tội pārājika.[175] Vị ni trong khi làm đầy đủ
sự việc thứ tám nên bị trục xuất.[176] Việc đã được trình ra và chưa được trình
ra bởi vị ni làm đầy đủ sự việc thứ tám. Sự tu lên bậc trên có tám lời thông
báo.[177] Nên đứng dậy đối với tám (vị ni thâm niên). Chỗ ngồi nên dành cho tám
(vị ni thâm niên).[178] Vị nữ cư sĩ đã thỉnh cầu tám điều ước muốn.[179] Vị tỳ
khưu hội đủ tám điều kiện nên được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni.[180]
Tám điều lợi ích cho vị rành rẽ về Luật.[181] Tám điều tối đa. Vị tỳ khưu được
thực thi hành sự theo tội của vị ấy nên thực hành nghiêm chỉnh trong tám
pháp.[182] Tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Tám sự đình chỉ giới bổn
Pātimokkha đúng Pháp.
Hết Phần Nhóm Tám
Tóm lược phần này:
[997]
Không phải tỳ khưu ấy,
của chính các vị khác,
cho đến lần thứ ba,
các sự làm hư hỏng,
tám tiêu đề về y,
thâu hồi Kaṭhina,
thức uống, bị ngự trị,
pháp thế gian, Trọng Pháp,
các tội ưng phát lộ,
nói dối, ngày trai giới,
các điều của sứ giả,
ngoại đạo, và biển cả,
phi thường, không phải thừa,
đồ thừa, phạm ưng xả,
tội pārājika,
(làm) sự việc thứ tám,
đã không được trình ra,
sự tu lên bậc trên,
sự đứng dậy, chỗ ngồi,
ước muốn, vị giáo giới,
các lợi ích, tối đa,
thực hành trong tám pháp,
sai pháp, và đúng pháp,
và các nhóm tám pháp
đã được khéo trình bày.
[998] Chín sự việc gây nóng giận.[183] Chín cách đối trị sự nóng
giận. Chín sự việc đã được rèn luyện.[184] Chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới
vi phạm.[185] Hội chúng bị chia rẽ với chín (vị tỳ khưu).[186] Chín vật thực
thượng hạng.[187] Tội dukkaṭa với chín loại thịt. Chín cách đọc tụng giới bổn.[188] Chín điều
tối đa. Chín pháp là gốc của tham ái.[189] Chín cách ngã mạn.[190] Chín loại y
được chú nguyện để dùng riêng.[191] Chín loại y không được chú nguyện để dùng
chung.[192] Chiều dài chín gang tay theo gang tay của đức Thiện Thệ.[193] Chín
sự bố thí sai pháp.[194] Chín sự thọ lãnh sai pháp. Chín sự thọ dụng sai pháp.
Ba sự bố thí sai pháp, ba sự thọ lãnh sai pháp, ba sự thọ dụng sai pháp. Chín
nhận thức sai pháp.[195] Chín nhận thức đúng pháp. Hai nhóm chín trong hành sự
sai pháp.[196] Hai nhóm chín trong hành sự đúng pháp. Chín sự đình chỉ giới bổn
Pātimokkha sai Pháp. Chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
Hết Phần Nhóm Chín
Tóm lược phần này:
[999]
Chín việc gây nóng giận,
đối trị, được rèn luyện,
phạm trước tiên, chia rẽ,
thượng hạng, thịt, đọc tụng,
tối đa, và tham ái,
ngã mạn, sự chú nguyện,
chú nguyện để dùng chung,
gang tay, việc bố thí,
việc thọ lãnh, thọ dụng,
ba cách, lại đúng pháp,
sai pháp, và đúng pháp,
nhận thức có hai nhóm,
và có hai nhóm chín,
sự đình chỉ giới bổn
sai pháp và đúng pháp.
[1000] Mười sự việc gây nóng giận. Mười cách đối trị sự nóng giận.
Mười sự việc đã được rèn luyện. Mười tà kiến căn bản.[197] Mười chánh kiến căn
bản. Mười tri kiến cực đoan.[198] Mười sự sai trái.[199] Mười sự chân chánh. Mười
đường lối của nghiệp bất thiện.[200] Mười đường lối của nghiệp thiện. Mười cách
phân phát thẻ sai pháp.[201] Mười cách phân phát thẻ đúng pháp. Mười điều học của
các sa di.[202] Vị sa di hội đủ mười điều kiện nên bị trục xuất.[203]
[1001] Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ mười
điều: vị không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của mình, không đưa ra sự giới hạn
cho lời nói của người khác, sau khi đã không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của
mình, sau khi đã không đưa ra sự giới hạn cho lời nói của người khác, cho thực
hiện (hành sự) sai pháp với sự không khẳng định, không biết về tội, không biết
nguồn sanh tội, không biết nhân sanh tội, không biết sự đoạn diệt của tội,
không biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của tội.
Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ mười điều
(khác nữa): vị đưa ra sự giới hạn cho lời nói của mình, đưa ra sự giới hạn cho
lời nói của người khác, sau khi đã đưa ra sự giới hạn cho lời nói của mình, sau
khi đã đưa ra sự giới hạn cho lời nói của người khác, cho thực hiện (hành sự)
đúng pháp với sự khẳng định, biết về tội, biết nguồn sanh tội, biết nhân sanh tội,
biết sự đoạn diệt của tội, biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của tội.
Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ mười điều
khác nữa: vị không biết về sự tranh tụng, không biết nguồn sanh khởi của sự
tranh tụng, không biết nhân sanh sự tranh tụng, không biết sự đoạn diệt của sự
tranh tụng, không biết sự thực hành đưa đến sự đoạn diệt của sự tranh tụng,
không biết về sự việc, không biết về sự mở đầu, không biết về sự quy định,
không biết về sự quy định thêm, không biết về phương thức của lối trình bày mạch
lạc.
Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ mười điều
(khác nữa): vị biết về sự tranh tụng, biết nguồn sanh khởi của sự tranh tụng,
biết nhân sanh sự tranh tụng, biết sự đoạn diệt của sự tranh tụng, biết sự thực
hành đưa đến sự đoạn diệt của sự tranh tụng, biết về sự việc, biết về sự mở đầu,
biết về sự quy định, biết về sự quy định thêm, biết về phương thức của lối
trình bày mạch lạc.
Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ mười điều
khác nữa: vị không biết về lời đề nghị, không biết cách thực hiện với lời đề
nghị, không thiện xảo về phần (cần trình bày) đầu tiên, không thiện xảo về các
phần kế tiếp, không biết về thời điểm, không biết về sự phạm tội hay không phạm
tội, không biết tội nhẹ hay nặng, không biết tội còn dư sót hay không còn dư
sót, không biết tội xấu xa hay không xấu xa, không khéo được kế thừa theo tuần
tự từ các vị thầy và không khéo chăm chú không khéo suy xét.
Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ mười điều
(khác nữa): vị biết về lời đề nghị, biết cách thực hiện với lời đề nghị, thiện
xảo về phần (cần trình bày) đầu tiên, thiện xảo về các phần kế tiếp, biết về thời
điểm, biết về sự phạm tội hay không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ hay nặng,
biết tội còn dư sót hay không còn dư sót, biết tội xấu xa hay không xấu xa,
khéo được kế thừa theo tuần tự từ các vị thầy và khéo chăm chú khéo suy xét.
Vị rành rẽ về Luật bị xem là “kẻ ngu dốt” khi hội đủ mười điều
khác nữa: vị không biết về sự phạm tội hay không phạm tội; không biết tội nhẹ
hay nặng; không biết tội còn dư sót hay không còn dư sót; không biết tội xấu xa
hay không xấu xa; đối với vị này cả hai bộ giới bổn Pātimokkha không khéo được
truyền thừa với chi tiết, không khéo được phân tích, không khéo được ứng dụng,
không khéo được xác định theo từng điều theo từng từ ngữ; không biết về sự phạm
tội hay không phạm tội; không biết tội nhẹ hay nặng; không biết tội còn dư sót
hay không còn dư sót; không biết tội xấu xa hay không xấu xa; không thiện xảo về
việc phán quyết trong sự tranh tụng.
Vị rành rẽ về Luật được xem là “vị thông thái” khi hội đủ mười điều
(khác nữa): vị biết về sự phạm tội hay không phạm tội; biết về sự phạm tội nhẹ
hay nặng; biết tội còn dư sót hay không còn dư sót; biết tội xấu xa hay không xấu
xa; đối với vị này cả hai bộ giới bổn Pātimokkha khéo được truyền thừa với chi
tiết, khéo được phân tích, khéo được ứng dụng, khéo được xác định theo từng điều
theo từng từ ngữ; biết về sự phạm tội hay không phạm tội; biết về sự phạm tội
nhẹ hay nặng; biết tội còn dư sót hay không còn dư sót; biết tội xấu xa hay
không xấu xa; thiện xảo về việc phán quyết trong sự tranh tụng.
[1002] Vị tỳ khưu hội đủ mười điều kiện nên được chỉ định làm vị
đại biểu. Đức Như Lai quy định điều học cho các Thinh văn vì mười điều lợi
ích.[204] Mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua.[205] Mười
vật bố thí.[206] Mười loại báu vật.[207] Hội chúng tỳ khưu nhóm mười vị. Nên
cho tu lên bậc trên với tập thể là nhóm mười vị. Mười loại vải paṃsukūla. Mười loại y và cách sử dụng.[208] Y
phụ trội được cất giữ tối đa mười ngày.[209] Mười loại tinh dịch.[210] Mười hạng
người nữ.[211] Mười hạng vợ. Mười sự việc được công bố ở thành Vesālī.[212] Mười
hạng người không nên đảnh lễ.[213] Mười sự việc của sự nguyền rủa.[214] Người tạo
ra sự đâm thọc theo mười cách thức.[215] Mười loại sàng tọa.[216] Họ đã yêu cầu
mười điều ước muốn.[217] Mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Mười sự
đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp. Mười điều lợi ích của cháo.[218] Mười
loại thịt không được phép.[219] Mười điều tối đa. Vị tỳ khưu mười năm, có kinh
nghiệm, có năng lực, nên cho xuất gia, nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban cho
phép nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ. Vị tỳ khưu ni mười năm, có kinh nghiệm,
có năng lực, nên cho xuất gia, nên ban phép tu lên bậc trên, nên ban cho phép
nương nhờ, nên để cho sa di ni phục vụ.[220] Sự đồng ý về việc tiếp độ nên được
chấp thuận cho vị tỳ khưu ni mười năm, có kinh nghiệm, có năng lực. Sự học tập
nên được ban cho đến người nữ đã kết hôn khi mười tuổi.
Hết Phần Nhóm Mười
Tóm lược phần này:
[1003]
Mười việc gây nóng giận,
căn bản, tà và chánh,
cực đoan, sự sai trái,
và cả sự đúng đắn,
nghiệp thiện, và bất thiện,
về việc (phân phát) thẻ,
sai pháp và đúng pháp,
sa di, sự trục xuất.
Lời nói, sự tranh tụng,
đề nghị, (tội) nhẹ nữa,
nhẹ nặng các tội này,
hãy biết tối và sáng.
Đại biểu, các điều học,
hậu cung, và các vật,
báu vật, và nhóm mười,
cũng vậy tu bậc trên,
vải paṃsukūla,
các loại y sử dụng,
mười ngày, tinh, người nữ,
người vợ, mười sự việc,
không đảnh lễ, nguyền rủa,
đâm thọc, và sàng tọa,
ước muốn, và sai pháp,
đúng pháp, cháo, và thịt,
tối đa, vị tỳ khưu,
tỳ khưu ni, tiếp độ,
nữ kết hôn, nhóm mười
đã được giảng rõ ràng.
[1004] Mười một hạng người chưa được tu lên bậc trên thì không
nên ban phép tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên thì nên trục xuất.[221]
Mười một loại giày không được phép.[222] Mười một loại bình bát không được
phép.[223] Mười một loại y không được phép.[224] Mười một tội vi phạm (khi được
nhắc nhở) cho đến lần thứ ba.[225] Mười một pháp chướng ngại của tỳ khưu ni cần
được hỏi.[226] Mười một loại y được chú nguyện để dùng riêng.[227] Mười một loại
y không được chú nguyện để dùng chung.[228] Khi rạng đông của ngày thứ mười một
thì phạm vào nissaggiya. Mười một loại khóa thắt lưng được phép. Mười một loại
hột nút được phép.[229] Mười một loại đất không được phép. Mười một loại đất được
phép.[230] Mười một trường hợp chấm dứt việc nương nhờ.[231] Mười một hạng người
không nên đảnh lễ.[232] Mười một điều tối đa. Họ đã yêu cầu mười một điều ước
muốn.[233] Mười một sự sai trái của ranh giới (sīmā).[234] Mười một tai họa là
điều hiển nhiên cho người chửi rủa và người mắng nhiếc: Khi tâm từ là sự giải
thoát của ý được tập luyện, được phát triển, được thực hành đều đặn, được làm
thành phương tiện, được làm thành nền tảng, được duy trì, được tích lũy, khéo
được thành tựu viên mãn, mười một điều lợi ích là điều hiển nhiên: ngủ an lạc,
thức dậy an lạc, không nhìn thấy ác mộng, được mọi người thương mến, được các
phi nhân thương mến, chư thiên hộ trì, lửa hoặc chất độc hoặc vũ khí không xâm
phạm vị ấy, tâm được nhập định nhanh chóng, sắc mặt được an tịnh, không mê mờ
khi từ trần, khi không thể nhập được trạng thái cao thượng thì đi đến thế giới
Phạm thiên; khi tâm từ là sự giải thoát của ý được tập luyện, được phát triển,
được thực hành đều đặn, được làm thành phương tiện, được làm thành nền tảng, được
duy trì, được tích lũy, khéo được thành tựu viên mãn, mười một điều lợi ích này
là điều hiển nhiên.
Hết Phần Nhóm Mười Một
Tóm lược phần này:
[1005]
Nên trục xuất, và giày,
các bình bát, và y,
thứ ba, và nên hỏi,
chú nguyện dùng riêng, chung,
rạng đông, khóa thắt lưng,
hột nút, không được phép,
được phép, việc nương nhờ,
và không nên đảnh lễ,
tối đa, và ước muốn,
sai trái của ranh giới,
chửi rủa, và tâm từ,
hoàn tất nhóm mười một.
Hết Chương Tăng Theo Từng Bậc
Tóm lược chương này
[1006]
Nhóm một, và nhóm hai,
nhóm ba, bốn, và năm,
sáu, bảy, tám, và chín,
mười, và nhóm mười một,
các điều tăng theo bậc
đã được đấng Đại Hùng
bậc hiểu Pháp như thế
thuyết giảng không sai sót
nhắm đến điều lợi ích
cho tất cả chúng sanh.
[1] Tức là sáu nguồn sanh tội
theo ba cửa thân, khẩu, và ý (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[2] Tức là bảy pháp dàn xếp sự
tranh tụng (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3] Nếu không tính nhóm tội
pārājika, thì nhóm tội saṅghādisesa là tội nặng, năm
nhóm tội còn lại là tội nhẹ (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[4] Anavasesā āpatti (tội
không còn dư sót) là nhóm tội pārājika, sāvasesā āpatti (tội còn dư sót) là sáu
nhóm tội còn lại (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[5] Tội xấu xa là nhóm tội
pārājika và saṅghādisesa, tội không xấu xa là
năm nhóm tội còn lại (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[6] Vi phạm bất cứ tội nào với
sự cố ý là chướng ngại cho cõi trời và là chướng ngại cho sự giải thoát. Còn vi
phạm tội vì không biết cũng đáng chê trách nhưng không là chướng ngại cho cõi
trời và sự giải thoát (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[7] Sāvajjapaññatti nghĩa là
lokavajja tức là sự chê trách của thế gian (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[8] Tội do không làm ví dụ như
tội không chú nguyện y mới (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[9] Tội do làm và không làm ví
dụ như tội bảo xây dựng cốc liêu (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[10] Ngài Buddhaghosa trích dẫn
lời giải thích của bộ chú giải Kurundī rằng: Tội vi phạm đầu tiên (pubbāpatti)
là tội phạm trước hết. Tội vi phạm đến sau (aparāpatti) là tội phạm thêm trong
thời kỳ xứng đáng hành phạt mānatta. Tội kế tiếp của các tội vi phạm đầu tiên
(pubbātīnaṃ antarāpatti) là tội phạm thêm
trong thời kỳ đang thực hành hành phạt parivāsa. Tội kế tiếp của các tội vi phạm
đến sau (aparāpattīnaṃ antarāpatti) là tội phạm thêm
trong thời kỳ đang thực hành hành phạt mānatta.
[11] Khi đã sám hối (nghĩ rằng):
“Sau khi buông bỏ gánh nặng, ta sẽ không vi phạm nữa” (ghi theo lời giải thích
của ngài Buddhaghosa).
[12] Ngài Buddhaghosa giải
thích là tội nặng và tội nhẹ (như phần ở trên).
[13] Tội (có nghiệp) xác định
(niyatā āpatti): là năm nghiệp vô gián (giết cha, giết mẹ, v.v...).
[14] Người không thể phạm tội
là chư Phật Chánh Đẳng Giác và chư Phật Độc Giác (ghi theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa).
[15] Là sự đình chỉ giới bổn
Pātimokkha (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương IX).
[16] Ví dụ như hai tội về việc
tuyên bố pháp thượng nhân của vị có thực chứng và của vị không có thực chứng
(ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[17] Như tội dạy đọc Pháp theo
từng câu, v.v... (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[18] Ví dụ như tội vi phạm do
việc trải ra giường ghế của hội chúng ở ngoài trời đến khi ra đi không thu dọn,
v.v... (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[19] Nói lời dâm dật với người
nữ dầu là sự thật bị vi phạm tội nặng, nói dối cố tình là nói láo vi phạm tội
nhẹ (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[20] Khoác lác về pháp thượng
nhân không chứng đắc là nói láo vi phạm tội nặng, nói về pháp thượng nhân có chứng
đắc đến người chưa tu lên bậc trên là nói sự thật vi phạm tội nhẹ (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[21] Liên quan đến phận sự của
vị tỳ khưu xuất hành và vãng lai lúc ra đi hoặc lúc đi đến tu viện (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[22] Có tội vi phạm trong khi
áp dụng, ví dụ như vị tỳ khưu ni áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước sâu quá hai
lóng tay, còn tội vi phạm trong khi không áp dụng ví dụ như vị tỳ khưu không áp
dụng cách làm hoại sắc y mới (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[23] Có tội vi phạm trong khi
thọ trì ví dụ như thọ trì pháp câm nín của ngoại đạo, có tội vi phạm trong khi
không thọ trì ví dụ như vị bị hành phạt không thực hành các phận sự (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[24] Có tội vi phạm trong khi
cắt đứt ví dụ như việc vị tỳ khưu cắt đứt dương vật, có tội vi phạm trong khi
không cắt đứt ví dụ như không cắt tóc và móng tay chân (ghi theo lời giải thích
của ngài Buddhaghosa).
[25] Có tội vi phạm trong khi
che đậy ví dụ như che đậy tội lỗi, có tội vi phạm trong khi không che đậy ví dụ
như vị tỳ khưu bị mất y không dùng cỏ hoặc lá cây che lại rồi đi (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[26] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương X, [240].
[27] Ngài Buddhaghosa giải
thích về người không thành tựu về thân thể như là người vô căn, người lưỡng
căn, loài thú, người đã làm sai trái trong hành động như là kẻ trộm tướng mạo
sa-môn, kẻ giết cha, kẻ giết mẹ, v.v....
[28] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương IX, [194].
[29] Sđd., chương IX, [195].
[30] Sự thọ dụng bên trong là
sự thọ thực và và sự thọ dụng bên ngoài là việc thoa xức dầu ở đầu, tay, chân,
v.v... (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[31] Điều này và hai điều kế
xin xem giới pācittiya tương ứng (2, 3, 32).
[32] Sđd., chương III, [206].
[33] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương IX, [468].
[34] Ví dụ như tội làm đức Phật
chảy máu là loại thứ nhất, vấn đề xưng hô vị thâm niên hơn là “āvuso” và
“āyasmā” là loại thứ hai, các tội còn lại là loại thứ ba (ghi theo lời giải
thích của ngài Buddhaghosa).
[35] Ví dụ như tội ăn thêm thức
ăn không phải là còn thừa là loại thứ nhất, ăn sái giờ là loại thứ hai, các tội
còn lại là loại thứ ba (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[36] Ví dụ như tội ngủ chung
nhà là loại thứ nhất, nghỉ ban ngày không đóng cửa lớn là loại thứ hai, các tội
còn lại là loại thứ ba (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[37] Ví dụ như trường hợp vị tỳ
khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm trên mười năm thâm niên làm thầy tế độ cho tu
lên bậc trên là loại thứ nhất, vị tỳ khưu thông thái có kinh nghiệm dưới mười
năm thâm niên làm thầy tế độ cho tu lên bậc trên là loại thứ hai (Đại Phẩm –
Mahāvagga, chương I, [90, 91]), các tội còn lại là loại thứ ba (ghi theo lời giải
thích của ngài Buddhaghosa).
[38] Giải nghĩa tương tợ như
trên với trường hợp sống nương nhờ (Sđd., chương I, [115]).
[39] Ví dụ như trường hợp vị tỳ
khưu dạy người chưa tu lên bậc trên đọc Pháp theo từng câu hoặc thuyết Pháp đến
người nữ quá năm sáu câu là loại thứ nhất, các tội như cố gắng làm xuất ra tinh
dịch, xúc chạm với người nữ là loại thứ hai, bậc Thánh A-la-hán vi phạm tội với
tâm vô ký ví dụ như việc ngài Anuruddha ngủ chung nhà với người nữ là loại thứ
ba (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[40] Thực hiện việc đôi lứa là
loại thứ nhất, sân hận bất bình rồi bôi nhọ vị tỳ khưu khác với tội pārājika là
loại thứ hai, các tội khác là loại thứ ba (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[41] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
IV, [681]
[42] Chỉ có tám Trọng Pháp của
tỳ khưu ni là sự quy định khi (sự việc) chưa xảy ra (ghi theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa).
[43] Ngài Buddhaghosa đề cập đến
tội không vào mùa (an cư) mưa vào hậu bán nguyệt là loại thứ nhất, và không thực
hiện lễ Pavāraṇā vào ngày cuối của mùa (an
cư) thời kỳ đầu là loại thứ hai, các tội khác là loại thứ ba. Phần được phép và
không được phép kế tiếp được giải thích tương tợ.
[44] Ngài Buddhaghosa đề cập đến
việc không chú nguyện để dùng chung y tắm mưa sau bốn tháng mùa mưa là loại tội
vi phạm trong mùa lạnh, tìm kiếm y tắm mưa trong mùa nắng lúc chưa đến thời kỳ
là tội vi phạm trong mùa nóng, có y tắm mưa vẫn tắm lõa thể là loại tội vi phạm
trong mùa mưa.
[45] Vấn đề này và vấn đề kế
tiếp được ngài Buddhaghosa giải thích có liên quan đến việc hành lễ Uposatha và
Pavāraṇā của hội chúng, của nhóm, và của cá nhân.
[46] Ngày kế ngày rằm của
tháng Āsāḷhā (tương đương ngày 16 tháng
sáu âm lịch, tức là ngày đầu tiên của mùa an cư mùa mưa đợt đầu) là thời điểm
trước nên phân phối, một tháng kế sau ngày rằm của tháng Āsāḷhā là thời điểm sau nên phân phối, một ngày sau lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) cho đến lần an cư mùa mưa kế là thời điểm trung gian
nên phân phối (Sđd., chương VI, [282]).
[47] Ví dụ như trường hợp vị bị
bệnh cần loại dược phẩm này lại yêu cầu loại khác là loại thứ nhất, vị không bị
bệnh yêu cầu dược phẩm là loại thứ nhì, các tội còn lại là loại thứ ba (ghi
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[48] Sđd., chương IX, [473,
474].
[49] Vấn đề này và vấn đề kế
xem ở Sđd., chương III. Hành phạt mānatta nửa tháng dành cho tỳ khưu ni (Phân
Tích Giới Tỳ Khưu Ni, chương II, [92]).
[50] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương II, [331].
[51] Ví dụ như tội chen vào chỗ
ngụ có vị tỳ khưu khác đã đến trước rồi nằm xuống là loại thứ nhất, tội trải ra
giường ghế của hội chúng ở ngoài trời là loại thứ nhì, các tội còn lại là loại
thứ ba (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[52] Ngài Buddhaghosa giải
thích ba vấn đề này có liên quan đến các phận sự của vị vãng lai là loại thứ nhất,
vị xuất hành là loại thứ nhì, và các phận sự còn lại là loại thứ ba (Sđd.,
chương VIII).
[53] Sđd., chương IV,
[602-607].
[54] Sđd., chương I, [28].
[55] Sđd., chương I, [69].
[56] Sđd., chương I, [88,
105].
[57] Điều saṅghādisesa 13.
[58] Sđd., chương I, [159] đối
với đặc tính thứ ba.
[59] Sđd., chương I, [174,
200].
[60] Sđd., chương I, [226,
251].
[61] Sđd., chương I, [278,
303].
[62] Liên quan đến tội
pācittiya 32 về vật thực dâng chung nhóm.
[63] Sđd., chương V, [142].
[64] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương V, [12].
[65] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương V, [127].
[66] Tóm lược lời giải thích của
ngài Buddhaghosa như sau: có tội vi phạm do lời nói của bản thân là phạm tội do
khẩu, thoát tội do lời nói của bản thân là do việc sám hối, có tội vi phạm do lời
nói của người khác là tội có tuyên ngôn nhắc nhở, thoát tội do lời nói của người
khác là thoát tội do tuyên ngôn trong việc giải tội saṅghādisesa.
[67] Ngài Buddhaghosa giải
thích việc thoát tội do thân là cách dùng cỏ che lấp của bảy pháp dàn xếp sự
tranh tụng.
[68] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: Có tội vi phạm vô ý thức (acittakāpattiṃ) là vị vi phạm tội không có sự liên quan của tâm, thoát tội có
ý thức là vị thoát khỏi tội có sự liên quan của tâm, có tội vi phạm có ý thức
là vị vi phạm tội có sự liên quan của tâm, thoát tội vô ý thức là cách dùng cỏ
che lấp.
[69] Ngài Buddhaghosa giải
thích liên quan đến việc các tỳ khưu phạm tội giống nhau (ví dụ tội pācittiya):
trong lúc sám hối tội pācittiya thì vi phạm tội dukkaṭa, trong lúc vi phạm tội dukkaṭa thì thoát khỏi tội
pācittiya, trong lúc thoát khỏi tội pācittiya thì vi phạm tội dukkaṭa.
[70] Ngài Buddhaghosa giải
thích như sau: Có tội vi phạm do hành sự (như việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
với sự nhắc nhở của hội chúng) thoát tội không do hành sự (như trong lúc sám hối),
có tội vi phạm không do hành sự (như việc làm xuất ra tinh dịch) thoát tội do
hành sự (thực hành hành phạt parivāsa, v.v...), phần còn lại được giải thích
tương tợ.
[71] Pācittiya 1, Phân Tích Giới
Tỳ Khưu, Chương VIII, [174].
[72] Vật dụng của bản thân là
loại thứ nhất, vật dụng của hội chúng là loại thứ nhì, vật dụng dùng ở bảo tháp
là loại thứ ba, vật dụng của hàng tại gia là loại thứ tư (ghi theo lời giải
thích của ngài Buddhaghosa).
[73] Ngài Buddhaghosa giải
thích là với sự hiện diện hoặc với sự vắng mặt của hội chúng. Được giải thích
như phần “do hành sự (của hội chúng)” ở trên.
[74] Tương tợ phần vô ý thức
và có ý thức ở trên
[75] Là sự thay đổi giới tính
của vị tỳ khưu hoặc vị tỳ khưu ni. Ngủ chung chỗ trú ngụ là tội được đề cập đến
(ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[76] Khi thay đổi giới tính,
những tội thuộc loại quy định riêng (cho các tỳ khưu hoặc các tỳ khưu ni) đã vi
phạm thì được thoát tội (Pārājika 1, Sđd., [56]).
[77] Có liên quan đến việc
thay đổi giới tính của vị tỳ khưu hoặc vị tỳ khưu ni.
[78] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương II, [365].
[79] Ngài Buddhaghosa giải
thích là “cattāro sāmukkaṃsāti cattāro mahāpadesā” nên
được dịch như trên, xem chi tiết ở Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VI, [92].
[80] Pācittiya 40, Phân Tích
Giới Tỳ Khưu, [526], Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VI, [43].
[81] Sđd., chương IX, [176].
[82] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương IV, [632].
[83] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: Các tội do không thực hành phận sự của vị vãng lai là phần thứ nhất,
các tội do không thực hành phận sự của vị thường trú là phần thứ nhì, các tội
do không thực hành các phận sự khác, các tội được quy định riêng cho một hội
chúng thì vị vãng lai luôn cả vị thường trú đều không vi phạm. Nhóm bốn kế tiếp
được giải thích tương tợ
[84] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: Có sự khác biệt về sự việc không có sự khác biệt về tội vi phạm (ví
dụ như bốn tội pārājika có sự khác biệt về sự việc không có sự khác biệt về tội
vi phạm), có sự khác biệt về tội vi phạm không có sự khác biệt về sự việc (ví dụ
như việc xúc chạm cơ thể, tỳ khưu phạm saṅghādisesa còn tỳ khưu ni phạm
pārājika; hoặc việc nhai tỏi, tỳ khưu phạm dukkaṭa, còn tỳ khưu ni phạm
pācittiya), có sự khác biệt về sự việc và có sự khác biệt về tội vi phạm (khi
so sánh các nhóm tội này với nhóm tội khác), không có sự khác biệt về sự việc
và không có sự khác biệt về tội vi phạm (là các tội quy định chung cho các tỳ
khưu và các tỳ khưu ni). Nhóm bốn kế tiếp nên được giải thích tương tợ.
[85] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: Có tội thầy tế độ vi phạm đệ tử không (vi phạm) là phận sự của thầy
tế độ, có tội đệ tử vi phạm thầy tế độ không (vi phạm) là phận sự của đệ tử, có
tội thầy tế độ luôn cả đệ tử đều vi phạm là các phận sự còn lại, có tội thầy tế
độ và đệ tử đều không vi phạm là các tội được quy định riêng cho một hội chúng
(hội chúng kia không vi phạm). Nhóm bốn kế tiếp được giải thích tương tợ.
[86] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương III, [214-216].
[87] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: “Trong khi tự tay lấy đi (bước đi) một bước hoặc hơn một bước vi phạm
tội nặng, trong khi ra lệnh vị khác với lời chỉ thị rằng: ‘Hãy mang đi chưa tới
một bước’ vi phạm tội nhẹ, và ba phần còn lại nên giải thích theo cách thức
tương tợ.”
[88] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng trường hợp vị đang thọ thực trong nhà ăn không thể đứng dậy đối với
vị thâm niên hơn là trường hợp thứ nhất, vị mới tu đối với vị thâm niên hơn
đang thực hành parivāsa là trường hợp thứ nhì, vị mới tu đối với vị thâm niên
hơn là trường hợp thứ ba, và ngược lại là trường hợp thứ tư. Nhóm bốn kế được
giải thích tương tợ.
[89] Ba trường hợp đầu xem lại
ở nhóm ba, trường hợp thứ tư liên quan đến các điều được quy định riêng cho một
hội chúng (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[90] Theo ngài Buddhaghosa, vật
thọ lãnh được phép lúc đúng thời không được phép lúc sái thời (như vật thực thọ
lãnh trước bữa ăn), thức uống là vật được phép thọ lãnh vào lúc sái thời và không
được phép lúc đúng thời nghĩa là đã để qua ngày hôm sau, có vật thọ lãnh được
phép lúc đúng thời luôn cả lúc sái thời (như là vật dùng trong bảy ngày hoặc vật
dùng đến suốt đời), có vật thọ lãnh không được phép lúc đúng thời luôn cả lúc
sái thời (ví dụ như thịt chưa làm thành được phép).
[91] Theo ngài Buddhaghosa, có
tội vi phạm trong các quốc độ ở biên địa không (vi phạm) ở trung tâm (như việc
kết ranh giới ở trên biển), có tội vi phạm trong các quốc độ ở trung tâm không
(vi phạm) ở biên địa (cho tu lên bậc trên với nhóm năm vị, tắm rửa thường
xuyên, đồ trải lót bằng da thú, dép có nhiều lớp, xin xem Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương V, [23]), có tội vi phạm trong các quốc độ ở biên địa luôn cả ở trung
tâm (các tội còn lại), có tội không vi phạm trong các quốc độ ở biên địa luôn cả
ở trung tâm (các tội quy định riêng cho một hội chúng, hội chúng kia dầu có thực
hiện cũng không vi phạm). Nhóm bốn kế tiếp được giải thích tương tợ.
[92] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: có tội vi phạm ở làng không (vi phạm) ở rừng (là các ưng học pháp),
có tội vi phạm ở rừng không (vi phạm) ở làng (như vị tỳ khưu ni đang chờ đợi trời
sáng), có tội vi phạm ở làng luôn cả ở rừng (như tội nói dối, v.v...), có tội
không vi phạm ở làng luôn cả ở rừng (là các tội quy định riêng cho một hội
chúng, hội chúng kia không phạm).
[93] Bốn nhiệm vụ đầu tiên là
đề cập đến các nhiệm vụ trong ngày Uposatha hoặc Pavāraṇā như quét dọn, đèn, nước, chỗ ngồi; hoặc bốn nhiệm vụ đầu tiên
khác là việc đem lại sự tùy thuận và bày tỏ sự trong sạch, tính đếm mùa tiết,
tính đếm số lượng tỳ khưu, và việc giáo giới (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[94] Bốn thời điểm thích hợp
là: vào ngày lễ Uposatha, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự đã
đến, các vị không phạm đồng tội, các nhân vật phạm tội không hiện diện (ghi
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[95] Là các tội pācittiya 16,
42, 77, 78 vì có câu “etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ” nghĩa là “Sau khi thực hiện
chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội ưng đối trị” (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[96] Là đề cập đến việc không
phạm các tội nissaggiya pācittiya thứ 2, 14, 29 và tội pācittiya thứ 9 do sự đồng
ý của hội chúng (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[97] Ngài Buddhaghosa giải
thích như sau: Có tội vị bị bệnh vi phạm (là vị bị bệnh cần loại dược phẩm này
lại yêu cầu loại khác), có tội vị không bị bệnh vi phạm (là vị không bị bệnh
yêu cầu dược phẩm) có tội vị bị bệnh luôn cả vị không bị bệnh đều vi phạm (như
tội nói dối, v.v...), có tội vị bị bệnh và cả vị không bị bệnh đều không vi phạm
(là các tội quy định riêng cho một hội chúng).
[98] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương IX, [475, 476].
[99] Xem lại [845] ở phần trước.
[100] Giết cha, giết mẹ, giết
vị A-la-hán, làm (đức Phật) chảy máu, và chia rẽ hội chúng.
[101] Là năm hạng người đã thực
hiện năm nghiệp vô gián ở trên (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[102] Là năm tội pācittiya 87,
89, 90, 91, 92 liên quan đến việc cắt bớt vật làm quá kích thước là chân giường,
tọa cụ, y đắp ghẻ, y tắm mưa, và y có kích thước y của đức Thiện Thệ.
[103] Ngài Buddhaghosa giải
thích là vị vô liêm sỉ, không có trí tuệ, bản chất xấu xa, lầm tưởng là được
phép trong điều không được phép, lầm tưởng là không được phép trong điều được phép.
[104] Tội pārājika,
thullaccaya, dukkaṭa, saṅghādisesa, và pācittiya (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[105] Ngài Buddhaghosa giải
thích về “đi không phải xin phép” là không phải báo cho vị tỳ khưu hiện diện
khi đi đến các gia đình trước hay sau bữa ăn, hai điều kế là giới pācittiya 32
và 33 của tỳ khưu, về “không phải xác định” là không phải bận tâm xác định trường
hợp được phép trong trường hợp vật thực dâng chung nhóm (gaṇabhojane aññatra samayā), “không phải chuyển nhượng bữa ăn” là liên
quan đến vật thực thỉnh sau (paramparabhojane).
[106] Pācittiya 39, Phân Tích
Giới Tỳ Khưu, Chương VIII, [518].
[107] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương VI, [27].
[108] Sđd., chương I, [97].
[109] Câu chuyện tráo thăm được
thấy ở điều pārājika thứ nhì ở phần các câu chuyện dẫn giải (Phân Tích Giới Tỳ
Khưu, Chương II, [135]).
[110] Pārājika 4, Sđd., Chương
IV, [230].
[111] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương VI, [292].
[112] Sđd., chương VI, [293].
[113] Hội chúng tỳ khưu với
nhóm bốn vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm năm vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm mười
vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm hai mươi vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm trên hai
mươi vị (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương IX, [187]).
[114] Sđd., chương II, [167].
[115] Sđd., chương V, [23].
[116] Sđd., chương VII, [96].
[117] Năm loại hành sự là hành
sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và hành sự
án treo gồm có ba được tính gộp chung thành một (ghi theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa).
[118] Giới pārājika thứ 3 của
tỳ khưu ni đề cập 3 loại tội là pārājika, thullaccaya, dukkaṭa, và tội saṅghādisesa của tỳ khưu về việc
chia rẽ hội chúng và pācittiya về tội không chịu từ bỏ tà kiến ác (ghi theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[119] Vấn đề này và hai vấn đế
kế tiếp liên quan đến tội pārājika thứ nhì về trộm cắp.
[120] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: vị không biết về tội (như pārājika, saṅghādisesa, v.v...), vị không biết gốc của tội (là thân và khẩu),
vị không biết nguồn sanh tội (do thân không do khẩu không do ý, v.v...), vị không
biết sự đoạn diệt của tội (là sự sám hối), vị không biết sự thực hành đưa đến sự
đoạn diệt của tội (là bảy cách dàn xếp).
[121] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: không biết về sự tranh tụng (là bốn sự tranh tụng), vị không biết
nguồn sanh khởi của sự tranh tụng (có 33: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi
có 12, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách có 14, sự tranh tụng liên quan đến
tội có 6, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ có 1), không biết nhân sanh sự
tranh tụng (sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi sanh lên nương vào 18 sự việc
làm chia rẽ hội chúng, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách sanh lên do bốn
điều hư hỏng, sự tranh tụng liên quan đến tội sanh lên do bảy nhóm tội, và sự
tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ sanh lên với bốn hành sự của hội chúng),
không biết sự đoạn diệt của sự tranh tụng (không xác định được quan điểm theo
Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư), không biết sự thực hành đưa đến
sự đoạn diệt của sự tranh tụng (không biết các sự tranh tụng được giải quyết bằng
các cách dàn xếp nào).
[122] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng: không biết về sự việc (là không biết về sự việc của tội pārājika, của
tội saṅghādisesa, ... của bảy nhóm tội), không biết về sự mở đầu (không
biết về các tội đã được quy định ở đâu), không biết về sự quy định (về sự quy định
ban đầu của mỗi điều học), không biết về sự quy định thêm (sự quy định thêm về
sau), không biết về phương thức của lối trình bày mạch lạc (không biết sự việc
theo phương thức liên hệ đến lời nói và liên hệ đến sự xác định).
[123] Liên quan đến hành sự và
tuyên ngôn hành sự.
[124] Bốn điều đầu được đề cập
ở Sđd., chương II, [176] và điều cuối ở chương I, [115].
[125] Pācittiya 11 (Phân Tích
Giới Tỳ Khưu, chương VIII, [355]).
[126] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương V, [25].
[127] Tức là năm cách đọc tụng
giới bổn Pātimokkha (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương II, [167]).
[128] Ba nhóm sáu này đã được
đề cập ở chương IV, [849-851] ở phần trước.
[129] Ngài Buddhaghosa giải
thích “sự thực hành đúng đắn” là các điều giới có câu “ayaṃ tattha sāmīci” tức là các giới saṅghādisesa 13, nissaggiya pācittiya 10, 22, pācittiya 34, 71, 84.
[130] Gồm năm pācittiya của tỳ
khưu đã được trình bày ở phần Nhóm Năm thêm vào tội pācittiya của tỳ khưu ni về
việc may y choàng tắm quá kích thước (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[131] Ngài Buddhaghosa giải
thích là vị vô liêm sỉ, không có trí tuệ, bản chất xấu xa, lầm tưởng là được
phép trong điều không được phép, lầm tưởng là không được phép trong điều được
phép, lầm lẫn về sự ghi nhớ.
[132] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng năm điều đã được giải thích ở trên thêm vào điều thứ sáu là “Lễ
Uposatha là phần trách nhiệm của vị ấy” (tass’ādheyyo uposatho).
[133] Ngài Buddhaghosa giải
thích là các điều giới có từ “paramaṃ” như là dasāhaparamaṃ, māsaparamaṃ, santaruttaraparamaṃ, v.v... và nêu rõ trong hai bộ giới bổn có tất cả là 14 giới.
Sáu giới đầu lập thành một Nhóm Sáu, sáu giới kế tiếp là Nhóm Sáu thứ nhì, còn
hai giới thì sau khi bớt đi một giới của mỗi một nhóm rồi thêm vào một giới để
lập thành các Nhóm Sáu khác nữa.
[134] Câu này được trích dẫn từ
giới nissaggiya pācittiya 29 về vị tỳ khưu có thể để y ở trong làng tối đa sáu
đêm khi ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng.
[135] Sáu loại y được đức Phật
cho phép: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải
(kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇaṃ, loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ) (Sđd., chương VIII, [139]).
[136] Sáu loại thuốc nhuộm được
đức Phật cho phép: thuốc nhuộm làm từ rễ cây, thuốc nhuộm từ thân cây, thuốc
nhuộm từ vỏ cây, thuốc nhuộm từ lá cây, thuốc nhuộm từ bông hoa, thuốc nhuộm từ
trái cây (Sđd., chương VIII, [147]).
[137] Ngài Buddhaghosa giải thích
như sau: Bốn loại hành sự là hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua
đuổi, hành sự hòa giải, hành sự án treo gồm có ba được chia thành hai là hành sự
án treo vì không nhìn nhận tội và hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi
được gom thành một, và thứ sáu là hành sự án treo vì không chịu từ bỏ tà kiến
ác.
[138] Đã được đề cập ở chương
IV, [854] ở phần trước.
[139] Đã được đề cập ở chương
IV, [855] ở phần trước.
[140] Câu này được trích dẫn từ
giới pācittiya 91 về chiều dài y tắm mưa của các tỳ khưu.
[141] Câu này được trích dẫn từ
giới pācittiya 92 về chiều rộng y của đức Thiện Thệ.
[142] Sđd., chương I, [97].
[143] Giới pācittiya 57 của tỳ
khưu đề cập sáu trường hợp được quy định thêm trong việc tắm là: “‘Một tháng rưỡi
còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa như vậy là hai tháng rưỡi
là lúc trời nóng nực, là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có
công việc, trường hợp đi đường xa, trường hợp mưa gió.”
[144] Nhóm sáu này và nhóm sáu
kế tiếp xem ở Sđd., chương VII, từ [100] trở đi.
[145] Toàn bộ đoạn [989] này
được đề cập ở Sđd., chương I, [99].
[146] Nhóm sáu này và nhóm sáu
kế tiếp được đề cập ở Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương IX, [479, 480].
[147] Ngài Buddhaghosa giải
thích “sự thực hành đúng đắn” là các điều giới có câu “ayaṃ tattha sāmīci” tức là sáu giới gồm có saṅghādisesa 13, nissaggiya pācittiya 10, 22, pācittiya 34, 71, 84
của tỳ khưu và một ở phần tổng kết giới saṅghādisesa của tỳ khưu ni là bảy.
[148] Sđd., chương IV, [609],
nhóm bảy kế tiếp xem [610].
[149] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương III [211, 212].
[150] Ngài Buddhaghosa cho biết
đã giải thích ở nhóm năm, giờ thêm vào “Lễ Uposatha và lễ Pavāraṇā là phần trách nhiệm của vị ấy” (tass’ādheyyo uposatho parāraṇā).
[151] Điều nissaggiya
pācittiya 29.
[152] Bảy loại hành sự là hành
sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, hành sự án
treo vì không nhìn nhận tội, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, và
thứ bảy là hành sự án treo vì không chịu từ bỏ tà kiến ác.
[153] Là lúa gạo sāli, lúa gạo,
lúa mạch, lúa mì, kê, đậu, hạt kudrūsaka (bắp?) được đề cập ở điều pācittiya 7
của tỳ khưu ni.
[154] Được trích dẫn từ điều
saṅghādisesa 6 về việc xây dựng cốc liêu của tỳ khưu.
[155] Điều pācittiya 32 của tỳ
khưu.
[156] Được đề cập ở điều nissaggiya
pācittiya 23 của tỳ khưu.
[157] “Bảy trường hợp cầm lấy”
được đề cập ở Sđd., chương VII, [100]. “Bảy trường hợp mang theo” kế tiếp được
đề cập ở [101].
[158] Nhóm bảy này và hai nhóm
bảy kế được đề cập ở Đại Phẩm – Mahāvagga, chương IX, [196-198].
[159] Sđd., chương X, [239].
[160] Sđd., chương X, [239].
[161] Tội saṅghādisesa 10, 11, 12, 13 của tỳ khưu và 7, 8, 9, 10 của tỳ khưu
ni (theo ngài Buddhaghosa).
[162] Tội saṅghādisesa 13, Phân Tích Giới Tỳ Khưu, Chương VI, [624].
[163] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương VIII, [172].
[164] Sđd., chương VII, [99].
[165] Tám loại thức uống: nước
xoài (amba), nước táo hồng (jambu), nước chuối hột (coca), nước chuối không hột
(moca), nước mật ong (madhu), nước nho (muddika), nước ngó sen (sāluka), nước
dâu (phārusaka) được đề cập ở Sđd., chương VI, [86].
[166] Tiểu Phẩm – Cullavagga,
chương VII, [401].
[167] Tám Trọng Pháp của tỳ khưu
ni (Sđd., chương X, [516]).
[168] Tám tội pāṭidesanīya của tỳ khưu ni.
[169] Điều pācittiya thứ nhất
của tỳ khưu.
[170] Sđd., chương VII, [398].
[171] Sđd., chương IX,
[449-456].
[172] Sđd., chương IX,
[457-464].
[173] Câu này và câu kế được đề
cập ở điều pācittiya 35 của tỳ khưu, phần định nghĩa từ.
[174] Điều nissaggiya
pācittiya 23 liên quan đến năm loại dược phẩm.
[175] Tám tội pārājika của tỳ
khưu ni.
[176] Điều pārājika thứ tám của
tỳ khưu ni đề cập đến tám hành động của vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng đối với
người nam là sự nắm lấy cánh tay (của người nam), sự nắm lại lấy chéo áo
choàng, đứng chung, trò chuyện, đi đến nơi hẹn hò, thích thú sự viếng thăm của
người nam, đi vào nơi che khuất, kề sát cơ thể nhằm mục đích xúc chạm cơ thể. Vị
tỳ khưu ni làm đủ tám hành động này phạm pārājika, nên bị trục xuất.
[177] Đề cập đến sự tu lên bậc
trên của tỳ khưu ni ở cả hai hội chúng tỳ khưu ni và tỳ khưu.
[178] Sđd., chương X, [582].
[179] Bà Visākhā đã thỉnh cầu
đức Phật để dâng vải choàng (tắm) mưa đến hội chúng, dâng thức ăn dành cho vị
đi đến, dâng thức ăn dành cho vị ra đi, dâng thức ăn dành cho vị bị bệnh, dâng
thức ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, dâng dược phẩm dành cho vị bị bệnh, dâng
cháo hàng ngày, dâng vải choàng tắm đến hội chúng tỳ khưu ni đến trọn đời (Đại
Phẩm – Mahāvagga, chương VIII, [153]).
[180] Được đề cập ở pācittiya
21 của tỳ khưu.
[181] Ngài Buddhaghosa cho biết
đã giải thích ở nhóm năm, giờ thêm vào “Lễ Uposatha lễ Pavāraṇā, và hành sự của hội chúng là phần trách nhiệm của vị ấy”
(tass’ādheyyo uposatho parāraṇā saṅghakammaṃ).
[182] Ngài Buddhaghosa đề cập
đến tám phận sự sau: không nên đình chỉ lễ Uposatha, (hoặc) không nên đình chỉ
lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch,
không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở
trách, không nên nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), không nên tạo bè phái với
các tỳ khưu.
[183] Nhóm chín này và nhóm
chín kế được đề cập ở Kinh Phúng Tụng – Saṅgītisutta, Kinh Trường Bộ –
Dīghanikāya III và Pháp 9 chi ở Kinh Tăng Chi – Aṅguttaranikāya III.
[184] Ngài Buddhaghosa giải
thích là: hạn chế, kềm chế, tự chế, chặt đứt sự tiếp nối với chín sự việc gây
nóng giận.
[185] Chín tội saṅghādisesa từ 1 đến 9 của tỳ khưu.
[186] Câu trả lời của đức Phật
cho đại đức Upāli về sự chia rẽ hội chúng Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương VII,
[404].
[187] Pācittiya 39 của tỳ khưu
đề cập đến chín loại vật thực thượng hạng là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phāṇitaṃ), cá (maccho), thịt (maṃsaṃ), sữa tươi (khīraṃ), sữa đông (dadhi).
[188] Tức là năm cách áp dụng
cho tỳ khưu và bốn cách áp dụng cho tỳ khưu ni.
[189] Ngài Buddhaghosa giải
thích về chín pháp là gốc của tham ái như sau: tầm cầu do duyên tham ái, đạt được
do duyên tìm cầu, quyết định do duyên đạt được, tham dục do duyên quyết định,
vướng mắc do duyên tham dục, nắm giữ do duyên vướng mắc, bỏn xẻn do duyên nắm
giữ, bảo vệ do duyên bỏn xẻn, do duyên bảo vệ có các sự tranh chấp bằng cách cầm
gậy, cầm kiếm, cãi cọ, tranh luận, tranh cãi, nói ác độc, nói dối (Kinh Đại
Duyên – Mahānidānasutta, thuộc Kinh Trường Bộ – Dīghanikāya).
[190] So sánh hơn, bằng, và
thua theo chín cách.
[191] Ngài Buddhaghosa giải
thích như sau: ba y, y tắm mưa, tọa cụ, ngọa cụ, y đắp ghẻ, khăn lau mặt, và y
phụ thuộc là chín (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VIII, [160]).
[192] Sau khi đã chú nguyện để
dùng riêng trong thời kỳ thích hợp thì không nên chú nguyện để dùng chung (ghi
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[193] Câu này được trích dẫn từ
giới pācittiya 92 về chiều dài y của đức Thiện Thệ.
[194] Ngài Buddhaghosa giải
thích như sau: vật đã được khẳng định là dâng cho hội chúng, thuyết phục dâng cho
hội chúng khác hoặc bảo tháp, hoặc cá nhân; vật đã được khẳng định là dâng đến
bảo tháp, vị thuyết phục dâng đến bảo tháp khác, hoặc hội chúng, hoặc cá nhân;
vật đã được khẳng định là dâng cho cá nhân, vị thuyết phục dâng cho cá nhân
khác, hoặc hội chúng, hoặc bảo tháp (được đề cập ở pācittiya 82 của tỳ khưu).
Năm câu kế được hiểu tương tợ.
[195] Câu này và câu kế được đề
cập ở Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương IV, [587, 588].
[196] Câu này và câu kế được đề
cập ở điều pācittiya 21 của tỳ khưu (ghi theo lời giải thích của ngài
Buddhaghosa).
[197] Mười tà kiến căn bản:
không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các
nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có
cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn
chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền
dạy lại (Kinh Sa-môn quả – Sāmaññaphalasutta, Kinh Trường Bộ – Dīghanikāya, lời
dịch của H.T. Minh Châu). Mười chánh kiến căn bản ở câu kế được hiểu đối nghịch
lại (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[198] Ngài Buddhaghosa giải
thích về mười tri kiến cực đoan: (Có phải) thế giới là vĩnh viễn? (Có phải) thế
giới là không vĩnh viễn? (Có phải) thế giới là hữu biên? (Có phải) thế giới là
vô biên? (Có phải) mạng sống và thân thể là chung? (Có phải) mạng sống và thân
thể là khác biệt? Như Lai còn tồn tại sau khi chết? Như Lai không còn tồn tại
sau khi chết? Như Lai còn và không còn tồn tại sau chết? Như Lai không phải còn
tồn tại và cũng không phải không tồn tại sau khi chết? (Aṅguttaranikāya, pháp 10 chi, phẩm Upāli).
[199] Tà kiến, tà tư duy, tà
ngữ, ... tà trí, tà giải thoát. Câu kế có ý nghĩa đối nghịch lại.
[200] Thân có ba nghiệp: sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu có bốn, ý có ba. Câu kế có ý nghĩa đối nghịch lại.
[201] Câu này và câu kế được đề
cập ở Sđd., chương IV, [612, 613].
[202] Đại Phẩm – Mahāvagga,
chương I, [120].
[203] Sđd., chương I, [124].
[204] Pārājika 1, Phân Tích Giới
Tỳ Khưu, chương I, [20].
[205] Pācittiya 83, Sđd.,
chương VIII, [733].
[206] Ngài Buddhaghosa giảng về
mười vật bố thí như sau: cơm, nước, vải, xe cộ, tràng hoa, vật thơm, vật thoa,
chỗ nằm, chỗ trú ngụ, đèn.
[207] Mười loại báu vật được đề
cập Tiểu Phẩm – Cullavagga là: ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, vỏ sò, đá quý,
san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo (chương IX, [455]).
[208] Chín loại y đã được kể ở
phần Nhóm Chín thêm vào vải choàng tắm hay áo lót của tỳ khưu ni là mười (ghi
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[209] Điều nissaggiya
pācittiya 1 của tỳ khưu.
[210] Xem saṅghādisesa 1 của tỳ khưu.
[211] Mười hạng người nữ và mười
hạng vợ được đề cập ở điều saṅghādisesa 5 của tỳ khưu.
[212] Mười sự việc được công bố
ở thành Vesālī: Được phép cất giữ muối trong ống sừng, được phép ăn khi bóng mặt
trời đã hai ngón tay, được phép đi vào làng rồi ăn thêm lần nữa, được phép hành
Uposatha riêng rẽ, được phép hành sự không đủ tỳ khưu, được phép thực hành theo
tập quán, được phép uống sữa chua lúc quá ngọ, được phép uống nước trái cây lên
men, được phép sử dụng tọa cụ không có viền quanh, được phép tích trữ vàng bạc
(Sđd., chương XII, [630]).
[213] Mười hạng người không
nên đảnh lễ được đề cập ở Sđd., chương VI, [264].
[214] Được đề cập ở điều
pācittiya 2 của tỳ khưu.
[215] Được đề cập ở điều pācittiya
3 của tỳ khưu.
[216] Ngài Buddhaghosa liệt kê
đến mười một loại sàng tọa như sau: giường, ghế, gối, nệm, tấm lót nền, vải phủ
giường ghế, thảm trải nền, tấm da thú, tấm lót ngồi, thảm cỏ, thảm lá.
[217] Ngài Buddhaghosa giải
thích là tám điều ước muốn do bà Visākhā thỉnh cầu, một điều do đức vua
Suddhodana yêu cầu về việc xuất gia phải có phép của cha mẹ (Đại Phẩm –
Mahāvagga, chương I, [118]), và một do thầy thuốc Jīvaka xin đức Phật cho phép
các tỳ khưu được phép nhận y của gia chủ cúng dường (Sđd, chương VIII, [135])..
[218] Sđd., chương VI, [61].
[219] Mười loại thịt không được
phép: người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, hổ, beo, gấu, chó sói (Sđd., [58-60]).
[220] Đúng ra là “mười hai”
cho điều này và hai điều kế.
[221] Mười một hạng người trên
là: kẻ vô căn, kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), kẻ bỏ theo ngoại đạo, loài thú, kẻ
giết mẹ, kẻ giết cha, kẻ giết A-la-hán, kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, kẻ chia rẽ
hội chúng, kẻ làm (đức Phật) chảy máu, kẻ lưỡng tánh (Sđd., chương VI,
[125-133]).
[222] Ngài Buddhaghosa giảng về
mười loại giày làm bằng vật quý giá và loại giày làm bằng gỗ là mười một.
[223] Ngài Buddhaghosa giảng về
loại bình bát bằng gỗ và mười loại bình bát làm bằng vật quý giá là làm bằng
vàng, bằng bạc, bằng ngọc ma-ni, bằng đá quý, bằng pha-lê, bằng đồng đỏ, bằng
thủy tinh, bằng thiếc, bằng chì, bằng đồng thau (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương
V, [33,34]).
[224] Mười một loại y không được
phép: y toàn màu xanh đậm, y toàn màu vàng, y toàn màu đỏ, y toàn màu đỏ sậm, y
toàn màu đen, y toàn màu nổi bật, y toàn màu sáng chói, y không cắt đường viền,
y có đường viền rộng, y có đường viền vẽ bông hoa, y có đường viền vẽ hình rắn
hổ mang (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VIII, [169]).
[225] Pārājika 3 của tỳ khưu
ni, 8 saṅghādisesa, pācittiya 68 về tỳ
khưu Ariṭṭha, và pācittiya 36 của tỳ
khưu ni Caṇḍakāḷī (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[226] Được đề cập ở Tiểu Phẩm
– Cullavagga, chương X, [573].
[227] Ngài Buddhaghosa liệt kê
mười một loại y được chú nguyện để dùng riêng là: ba y, y tắm mưa, tọa cụ, ngọa
cụ, y đắp ghẻ, khăn lau mặt, y phụ thuộc, vải choàng tắm và áo lót của tỳ khưu
ni.
[228] Sau khi đã chú nguyện để
dùng riêng trong thời kỳ thích hợp thì không nên chú nguyện để dùng chung (ghi
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[229] Sđd., chương V, [165,
167].
[230] Pācittiya 10 đề cập đến
mười loại đất không màu mỡ là: thuần đá, thuần sỏi, thuần mảnh sành, thuần sạn,
thuần cát, có ít đất, có ít đất sét, phần lớn là đá, phần lớn là sỏi, phần lớn
là mảnh sành, phần lớn là sạn, phần lớn là cát, đã được đốt cháy, đống đất hoặc
đống đất sét được thấm nước mưa chưa tới bốn tháng.
[231] Ngài Buddhaghosa giảng
giải về mười một sự chấm dứt sự nương nhờ: Năm đối với thầy tế độ, sáu đối với
thầy dạy học (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương I, [97]).
[232] Ngài Buddhaghosa giảng rằng
hạng người lõa thể là thứ mười một (Mười hạng đã được trình bày ở nhóm mười ở
trên).
[233] Ngài Buddhaghosa giảng rằng
điều ước muốn thứ mười một là của bà Mahāpajāpati Gotamī về việc các tỳ khưu và
tỳ khưu ni thực hành phận sự thích hợp là sự đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay
tính theo thâm niên (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương V, [521]) nhưng đức Phật từ
chối. Mười điều kia đã được trình bày ở trên.
[234] Được trình bày không liên tục ở Đại Phẩm – Mahāvagga, chương II.
Xem Chương 7 – Quay về Mục Lục Tập Yếu
0 Comments