Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 1
Chương 5. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ)
6. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ sáu: Làm cốc liêu
Mục Lục
[496] Câu chuyện về các tỳ-khưu ở thành Āḷavī
[499] Câu chuyện về hai anh em ẩn sĩ và rồng chúa Maṇikaṇṭha
[500] Câu chuyện về vị tỳ-khưu và bầy chim
[502] Sự quy định điều học
[503] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[504] Cách thức xem xét và xác định khu đất làm cốc liêu
[511] Các trường hợp phạm tội
[521] Các yếu tố xác định tội
[522] Các trường hợp không phạm tội
Nội Dung
[496] Câu chuyện về các tỳ-khưu
ở thành Āḷavī
[496] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các vị ấy sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ (lầm) tưởng rằng: “Là vị tỳ khưu” rồi cũng tránh đi.
[497] Khi ấy, đại đức Mahākassapa, trải qua mùa (an cư) mưa ở
thành Rājagaha, đã ra đi về phía thành Āḷavī, trong khi tuần tự du hành đã ngự
đến thành Āḷavī. Tại nơi ấy trong thành Āḷavī, đại đức Mahākassapa ngụ tại tháp
thờ Aggāḷava. Sau đó vào buổi sáng, đại đức Mahākassapa đã mặc y, cầm y bát, đi
vào thành Āḷavī để khất thực. Dân chúng khi nhìn thấy đại đức Mahākassapa cũng
trở nên hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng
cửa lại. Sau đó, khi đã đi khất thực trong thành Āḷavī, đại đức Mahākassapa khi
đang đi khất thực trở về sau bữa ăn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, thành Āḷavī này trước đây vật thực dồi dào, đồ
khất thực nhận được mau chóng, và dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực.
Hiện nay, thành Āḷavī này quả thật có sự khó khăn về vật thực, đồ khất thực nhận
được khó khăn, và không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Này các đại
đức, do nhân gì, do duyên gì khiến thành Āḷavī này lại có sự khó khăn về vật thực,
đồ khất thực nhận được khó khăn, và không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất
thực?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức
Mahākassapa.
[498] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Rājagaha theo như
ý thích đã ra đi du hành về phía thành Āḷavī, trong khi tuần tự du hành đã ngự
đến thành Āḷavī. Tại nơi ấy trong thành Āḷavī, đức Thế Tôn ngụ tại tháp thờ
Aggāḷava. Sau đó, đại đức Mahākassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã
đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức
Mahākassapa đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do
ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các vị tỳ khưu ở
thành Āḷavī rằng:
- Này các tỳ khưu , nghe nói các ngươi tự xin (vật liệu) rồi cho
xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước,
và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều van
xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân
công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố
thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí
tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí
đất sét.” Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy
các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng
khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ (lầm) tưởng rằng: “Là vị tỳ
khưu” rồi cũng tránh đi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, . .(như trên)...,
không nên làm! Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự xin (vật liệu) rồi
cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích
thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều
van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân
công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố
thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí
tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí
đất sét” vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... và làm thay đổi (niềm tin) của một số người
đã có đức tin.
Sau đó, khi đã khiển trách các tỳ khưu ở thành Āḷavī bằng nhiều
phương thức, ...(như trên)... đức Thế Tôn đã đã thuyết Pháp thoại thích đáng và
phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
[499] Câu chuyện về hai anh em
ẩn sĩ và rồng chúa Maṇikaṇṭha
[499] - Này các tỳ khưu, vào thời trước đây có hai anh em ẩn sĩ đã sống nương tựa vào giòng sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha [1] đã vượt qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn quanh vị ẩn sĩ trẻ tuổi bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (vị ấy) và giữ nguyên. Này các tỳ khưu, rồi do sự khiếp sợ con rồng ấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ lớn tuổi đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi bị ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn sĩ trẻ tuổi điều này:
- Này đệ, vì sao đệ lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ
xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?
- Thưa huynh, trường hợp của đệ là con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt
qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp đệ, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn
quanh đệ bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (đệ) và giữ nguyên. Thưa huynh,
do sự khiếp sợ con rồng ấy đệ đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh
xao, thân hình nổi đầy gân.
- Này đệ, vậy đệ có muốn con rồng ấy không đến nữa?
- Thưa huynh, đệ muốn con rồng ấy không đến nữa.
- Này đệ, vậy đệ thấy con rồng ấy có vật gì?
- Thưa huynh, đệ thấy viên ngọc ma-ni là vật trang điểm ở cổ của
nó.
- Này đệ, như thế thì đệ hãy xin con rồng ấy viên ngọc ma-ni (nói
rằng): “Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.”
Này các tỳ khưu, rồi con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua giòng
sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã đứng ở một bên. Này
các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nói với con rồng chúa Maṇikaṇṭha đang đứng một
bên điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị
tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi đã bỏ đi ngay
lập tức.
Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt
qua giòng sông Gaṅgā và đi đến gặp vị ẩn sĩ trẻ tuổi. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ
trẻ tuổi đã nhìn thấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha từ ở đàng xa đang đi lại, sau
khi nhìn thấy đã nói với con rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị
tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi ngay từ nơi ấy
quay trở lui.
Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba con rồng chúa Maṇikaṇṭha đang vượt
qua giòng sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nhìn thấy con rồng
chúa Maṇikaṇṭha đang vượt qua giòng sông Gaṅgā, sau khi nhìn thấy đã nói với
con rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này:
- Rồng ơi, hãy cho ta viên ngọc ma-ni, ta cần viên ngọc ma-ni.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha đã thốt lên với
vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng những lời kệ này:
Cơm và nước của ta
được dồi dào, tuyệt hảo
sanh lên do nhân của
viên ngọc ma-ni này.
Ngươi kẻ xin quá lố,
ta không cho vật ấy,
và ta sẽ không đến
khu ẩn cư ngươi nữa.
Như là những đứa trẻ
tay cầm dao mài bén,
ngươi làm ta run rẩy
khi cầu xin viên ngọc.
Ngươi kẻ xin quá lố,
ta không cho vật ấy,
và ta sẽ không đến
khu ẩn cư ngươi nữa.
Này các tỳ khưu, khi ấy con rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): “Vị
tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni” rồi bỏ đi, trong
khi bỏ đi như thế rồi đã không quay trở lại nữa.
Này các tỳ khưu, sau đó vị ẩn sĩ trẻ tuổi do việc không còn nhìn
thấy con rồng chúa xinh xắn ấy nữa càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ
xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ lớn tuổi
đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ
xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa; sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn
sĩ trẻ tuổi điều này:
- Này đệ, vì sao đệ lại càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có
vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa vậy?
- Thưa huynh, đệ càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ
xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa là do việc không còn nhìn thấy con
rồng chúa xinh xắn ấy nữa. Này các tỳ khưu, khi ấy vị ẩn sĩ lớn tuổi đã thốt
lên với vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng lời kệ này:
Chớ xin dầu mong được
vật yêu quý của người,
do cầu xin quá đáng
trở thành bị ghét bỏ.
Bà-la-môn cầu xin
rồng chúa ngọc ma-ni
không được nhìn thấy nữa,
bởi rồng đã bỏ đi.
Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc
yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì
sẽ là điều gì đối với loài người?
[500] Câu chuyện về vị tỳ-khưu
và bầy chim
[500] Này các tỳ khưu, vào thời trước đây có vị tỳ khưu nọ sống trong khu rừng rậm nọ ở sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Này các tỳ khưu, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước lớn và sâu thẳm. Này các tỳ khưu, có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong đầm nước ấy và ban đêm đi đến nương náu ở khu rừng rậm ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy vị tỳ khưu ấy bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy đã đi đến gặp ta, sau khi đến đã đảnh lễ ta rồi ngồi xuống ở một bên. Này các tỳ khưu, rồi ta đã nói với vị tỳ khưu ấy đang ngồi một bên điều này:
- Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp
không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ
đâu đi đến?
- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp.
Và bạch ngài, con đi đến đường xa ít mệt nhọc. Bạch ngài, có khu rừng rậm lớn ở
sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Bạch ngài, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước
lớn và sâu thẳm. Bạch ngài, rồi có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong
đầm nước ấy và ban đêm đến nương náu ở khu rừng rậm ấy. Bạch Thế Tôn, con từ
nơi đó đi đến vì bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy.
- Này tỳ khưu, vậy ngươi có muốn bầy chim ấy không đến nữa?
- Bạch ngài, con muốn bầy chim ấy không đến nữa.
- Này tỳ khưu, như thế thì ngươi hãy về lại nơi ấy và đi vào
trong khu rừng rậm ấy rồi vào canh đầu của đêm hãy nói lớn lời này ba lần: “Hỡi
toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe
tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.”
Rồi vào canh giữa của đêm ...(như trên)... Rồi vào canh cuối của đêm hãy nói lớn
lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này,
xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một
ngài một lông chim.”
Này các tỳ khưu, sau đó vị tỳ khưu ấy đã về lại nơi ấy và đi vào
trong khu rừng rậm ấy, rồi vào canh đầu của đêm đã nói lớn lời này ba lần: “Hỡi
toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe
tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.”
Rồi vào canh giữa của đêm ...(như trên)... Rồi vào canh cuối của đêm đã nói lớn
lời này ba lần: “Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến nương náu ở khu rừng rậm này,
xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một
ngài một lông chim.”
Này các tỳ khưu, khi ấy bầy chim ấy (nghĩ rằng): “Vị tỳ khưu xin
lông chim, vị tỳ khưu cần lông chim” nên đã rời bỏ khu rừng rậm ấy, trong khi bỏ
đi như thế rồi đã không quay trở lại nữa.
Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc
yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì
sẽ là điều gì đối với loài người?
[501] Này các tỳ khưu, vào thời trước đây người cha của Raṭṭhapāla
con trai nhà danh giá đã thốt lên với Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá bằng lời
kệ này:
Này Raṭṭhapāla,
có rất là nhiều người
dầu ta không biết họ
họ vẫn đi đến gặp
rồi lại cầu xin ta,
sao con không xin ta?
(Vị Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá đáp lại rằng):
Kẻ xin không ai thích,
được xin lại không cho
cũng không được ưa thích;
chính vì lý do ấy,
tôi không cầu xin ông
chớ có ghét bỏ tôi.
Này các tỳ khưu, chính Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá ấy còn
nói với cha của mình như thế, thì người với người sẽ còn nói điều gì nữa?
[502] Sự quy định điều học
[502] Này các tỳ khưu, đối với người tại gia các tài sản kiếm được khó khăn, các vật tích lũy được gìn giữ một cách khó nhọc. Này những kẻ rồ dại, thế mà ở nơi ấy các ngươi lại sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu đối với các tài sản kiếm được khó khăn, các vật tích lũy được gìn giữ một cách khó nhọc như thế (nói rằng): “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi trong khi cho xây dựng cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân thì nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài mười hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ,[2] chiều ngang bảy gang ở bên trong, và nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định khu đất là không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng cốc liêu dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh, hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt quá kích thước thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[503] Giải nghĩa từ ngữ của điều
học
[503] Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu người nam, nhân công, bò, xe kéo, rìu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, ...(như trên)... cỏ tiṇa, đất sét.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài,
hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong khi cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người
làm.
Không có thí chủ: không có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là
người nữ, hoặc người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.
Dành cho bản thân: vì nhu cầu của bản thân.
Nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài
mười hai gang theo gang tay của đức Thiện thệ: theo cách đo ở bên ngoài.
Chiều ngang bảy gang ở bên trong: theo cách đo ở bên trong.
[504] Cách thức xem xét và xác
định khu đất làm cốc liêu
[504] Nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu ấy nên cho dọn sạch khu đất làm cốc liêu, nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật
liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội
chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Nếu toàn thể hội chúng có khả năng đi xem xét khu đất làm cốc
liêu thì (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội
chúng không có khả năng đi xem xét khu đất làm cốc liêu thì tại nơi ấy, các tỳ
khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc
không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống, các vị ấy
nên được thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ,
dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu.
Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định các vị tỳ khưu
tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu
tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ,
dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu.
Hội chúng chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu
đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc chỉ định
các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của
vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ
định để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được
hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[505] Các vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi đó
nên xem xét khu đất làm cốc liêu và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc
không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống. Nếu có điều
chướng ngại và không có khoảng trống xung quanh thì nên nói rằng: “Chớ làm ở
đây.” Nếu không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh thì nên thông
báo với hội chúng rằng: “Không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung
quanh.”
Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu nên đi đến nơi hội chúng, đắp
thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm,
chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật
liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội
chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ,
dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc
liêu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên xác định khu đất
làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ,
dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc
liêu. Hội chúng xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại
đức nào đồng ý việc xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy)
xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội
chúng xác định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.”
[506] Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, hoặc là có tổ mối,
hoặc là có ổ chuột, hoặc là có ổ rắn, hoặc là có ổ bọ cạp, hoặc là có ổ rết, hoặc
là chỗ ở của bầy voi, hoặc là chỗ ở của bầy ngựa, hoặc là chỗ ở của bầy sư tử,
hoặc là chỗ ở của bầy cọp, hoặc là chỗ ở của bầy beo, hoặc là chỗ ở của bầy gấu,
hoặc là chỗ ở của bầy chó sói, hoặc là chỗ ở của bất cứ các loài thú hoặc các
loài sinh vật nào, hoặc kề cận ruộng trồng thóc lúa, hoặc kề cận ruộng trồng
rau cải, hoặc kề cận nơi tra trấn, hoặc kề cận nơi xử trảm, hoặc kề cận mộ địa,
hoặc kề cận vườn hoa, hoặc kề cận đất của đức vua, hoặc kề cận chuồng voi, hoặc
kề cận chuồng ngựa, hoặc kề cận trại giam, hoặc kề cận quán rượu, hoặc kề cận
nhà đồ tể, hoặc kề cận đường vận chuyển, hoặc kề cận giao lộ, hoặc kề cận nơi hội
họp, hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.
[507] Không có khoảng trống xung quanh nghĩa là không thể đi vòng
với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi vòng xung quanh với cái
thang; điều này nghĩa là không có khoảng trống xung quanh.
[508] Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến, hoặc
là không có tổ mối, hoặc là không có ổ chuột, hoặc là không có ổ rắn, hoặc là
không có ổ bọ cạp, hoặc là không có ổ rết, ...(như trên)... hoặc không kề cận
chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều chướng ngại.
[509] Có khoảng trống xung quanh nghĩa là có thể đi vòng với chiếc
xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa
là có khoảng trống xung quanh.
[510] Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu về người
nam, nhân công, ...(như trên)..., lưỡi đục.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài,
hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Cho xây dựng: là (tự) làm hoặc bảo người làm.
Hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt
quá kích thước: hoặc là sau khi không cho xác định khu đất làm cốc liêu bằng
hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì, hoặc là sau khi vượt quá chiều dài
hoặc chiều rộng cho dù chỉ bằng sợi tóc rồi (tự) làm hay bảo người làm thì tội
dukkaṭa (tác ác) cho mỗi thao tác. Còn cục (vữa tô) cuối cùng thì phạm tội
thullaccaya (trọng tội). Khi cục (vữa tô) ấy đã được đặt vào thì phạm tội saṅghādisesa
(tăng tàng).
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là
“tội saṅghādisesa.
[511] Các trường hợp phạm tội
[511] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)
và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có
điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa
(tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có
điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng
tàng).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[512] Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và
hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa
(tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và
tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại, có
khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[513] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt
quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm
hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá
kích thước, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa
(tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá
kích thước, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm
hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá
kích thước, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm hai
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[514] Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo
kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai
tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước,
có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước,
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước,
không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[515] Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị
làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì (vị ấy) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)
và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có
điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và
tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung
quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng
trống xung quanh thì (vị ấy) phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có
điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội
dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh
thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống
xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội
saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không
có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung
quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng
tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng
trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa
và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như
trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì vô tội.
[516] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi”
rồi ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều
chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở
khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung
quanh thì (vị ấy) phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác
ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm
tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm
tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều
chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở
khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng
trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không
có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá
kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội
saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích
thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội
dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung
quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không
có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích
thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng
tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng
trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa
và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích
thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc
liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như
trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì vô tội.
[517] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi”
rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy
nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có
điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích
thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có
điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc
phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy
nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có
điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi
hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định và không có điều
chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung
quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được
xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ
khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác
định và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa
tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy
nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất không được xác định,
không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích
thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định.” Nếu không
đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy
nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi
hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng
trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
đã được xác định, có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng:
“Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc
phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
đã được xác định, không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.
Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm cho ta ở khu đất đã được xác định,
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên
đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy (là) có khoảng trống xung
quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
đã được xác định, không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô
tội.
[518] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi”
rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá
kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng:
“Nghe nói cốc liêu được làm cho ta vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại, và có khoảng
trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước và không có điều
chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước và có khoảng trống
xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy theo đúng kích thước.” Nếu không đích thân
đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại,
và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo đúng kích
thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng:
“Nghe nói cốc liêu được làm cho ta theo đúng kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung
quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)...
“Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước,
không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu
cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm
cho ta ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, không có điều
chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất
được xác định, theo đúng kích thước, và không có điều chướng ngại.” ...(như
trên)... “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước, và có khoảng trống
xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất được xác định và theo đúng kích
thước.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước,
không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu
cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo đúng kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng: “Nghe nói cốc liêu được làm
cho ta ở khu đất đã được xác định, theo đúng kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung
quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)...
“Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
[519] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi”
rồi ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì
các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất
đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các
vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị
xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng
trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại,
và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước,
có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm
ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có
điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai
tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung
quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy theo đúng kích thước, không có điều chướng ngại,
và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước,
có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm
hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước,
không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu
cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm bốn tội dukkaṭa (tác
ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị
xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không
có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng
phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, theo đúng kích thước,
không có điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm cốc liêu
cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác
ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm
tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống
xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có
khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[520] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi”
rồi ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa
xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho
làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội
saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ
khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu
không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa
(tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì
phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì
vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại.
Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai
tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy vượt quá kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ
khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu
không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa
(tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy theo kích thước, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ
khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu
không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội
dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung
quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá
kích thước, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở
về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc
nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho
làm lại thì vị ấy phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác
ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì
phạm hai tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm hai tội saṅghādisesa và tội
dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh
... thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm cốc liêu cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm cốc liêu cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước,
có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm
chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc liêu ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi
cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị
ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng
trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như
trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì vô tội.
[521] Các yếu tố xác định tội
[521] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[522] Các trường hợp không phạm
tội
[522] Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, chòi cỏ, vì nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở,[3] vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều saṅghādisesa (tăng tàng)
thứ sáu
Xem tiếp Chương 6 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments