Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 1
Chương 5. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ)
7. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ bảy: Làm trú xá lớn
Mục Lục
[523] Câu chuyện về tỳ-khưu Channa. Sự quy định điều học
[524] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[525] Cách thức xem xét và xác định khu đất làm trú xá lớn
[532] Các trường hợp phạm tội
[538] Các yếu tố xác định tội
[539] Các trường hợp không phạm tội
Nội Dung
[523] Câu chuyện về tỳ-khưu
Channa. Sự quy định điều học
[523] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita.[4] Vào lúc bấy giờ, người gia chủ hộ độ đại đức Channa[5] đã nói với đại đức Channa điều này:
- Thưa ngài, hãy tìm kiếm khu đất của trú xá. Tôi muốn cho xây dựng
trú xá cho ngài đại đức.
Sau đó, trong khi dọn sạch khu đất của trú xá, đại đức Channa đã
cho người đốn cội cây nọ vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị
trấn tôn kính, được thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn
kính. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ
phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được thành phố tôn kính,
được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn kính? Các sa-môn Thích tử làm hại cuộc sống
của loài có một giác quan?[6]
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao đại đức Channa lại cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng
được làng mạc tôn kính, ...(như trên)..., được lãnh thổ tôn kính?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
...(như trên)...
- Này Channa, nghe nói ngươi cho chặt cội cây vốn là nơi thờ phượng
được làng mạc tôn kính, ...(như trên)..., được lãnh thổ tôn kính, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- ...(như trên)... Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cho chặt cội
cây vốn là nơi thờ phượng được làng mạc tôn kính, được thị trấn tôn kính, được
thành phố tôn kính, được xứ sở tôn kính, được lãnh thổ tôn kính vậy? Này kẻ rồ
dại, bởi vì có những chúng sanh có tâm thức là những hạng người ở trên cây cối.
Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu trong khi cho xây dựng trú xá lớn có thí chủ, dành cho bản thân,
nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định
khu đất là không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh. Nếu vị tỳ
khưu cho xây dựng trú xá lớn dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh, hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định
khu đất thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[524] Giải nghĩa từ ngữ của điều
học
[524] Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc
được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong khi cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người
làm.
Có thí chủ: có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là người nữ, hoặc
người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.
Dành cho bản thân: vì nhu cầu của bản thân.
[525] Cách thức xem xét và xác
định khu đất làm trú xá lớn
[525] Nên dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu
là người làm trú xá nên cho dọn sạch khu đất làm trú xá, nên đi đến nơi hội
chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi
chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành
cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất
làm trú xá.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Nếu toàn thể hội chúng có khả năng đi xem xét khu đất làm trú xá
thì (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội chúng
không có khả năng đi xem xét khu đất làm trú xá thì tại nơi ấy, các vị tỳ khưu
nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc không có
điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống, các vị ấy nên được
thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh
cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội
chúng, hội chúng nên chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem
xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh
cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm trú xá. Hội chúng chỉ định các tỳ khưu
tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên
(như vầy). Đại đức nào đồng ý việc chỉ định các tỳ khưu tên (như vầy) và tên
(như vầy) để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng;
vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ
định để xem xét khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội
chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[526] Các vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi ấy
nên xem xét khu đất làm trú xá và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc
không có điều chướng ngại, có khoảng trống hay không có khoảng trống. Nếu có điều
chướng ngại và không có khoảng trống xung quanh thì nên nói rằng: “Chớ làm ở
đây.” Nếu không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung quanh thì nên thông
báo với hội chúng rằng: “Không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung
quanh.”
Vị tỳ khưu là người làm trú xá nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng
y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp
tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành
cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất
làm trú xá.
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh
cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội
chúng, hội chúng nên xác định khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy).
Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) có ý định làm trú xá lớn, có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh
cầu hội chúng việc xác định khu đất làm trú xá. Hội chúng xác định khu đất làm
trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc xác định khu đất
làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể
nói lên.
Khu đất làm trú xá của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng
xác định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.”
[527] Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, hoặc là có tổ mối,
hoặc là có ổ chuột, hoặc là có ổ rắn, hoặc là có ổ bọ cạp, hoặc là có ổ rết, hoặc
là chỗ ở của bầy voi, hoặc là chỗ ở của bầy ngựa, hoặc là chỗ ở của bầy sư tử,
hoặc là chỗ ở của bầy cọp, hoặc là chỗ ở của bầy beo, hoặc là chỗ ở của bầy gấu,
hoặc là chỗ ở của bầy chó sói, hoặc là chỗ ở của của bất cứ các loài thú hoặc
các loài sinh vật nào, hoặc kề cận ruộng trồng thóc lúa, hoặc kề cận ruộng trồng
rau cải, hoặc kề cận nơi tra trấn, hoặc kề cận nơi xử trảm, hoặc kề cận mộ địa,
hoặc kề cận vườn hoa, hoặc kề cận đất của đức vua, hoặc kề cận chuồng voi, hoặc
kề cận chuồng ngựa, hoặc kề cận trại giam, hoặc kề cận quán rượu, hoặc kề cận
nhà đồ tể, hoặc kề cận đường vận chuyển, hoặc kề cận giao lộ, hoặc kề cận nơi hội
họp, hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.
[528] Không có khoảng trống xung quanh nghĩa là không thể đi vòng
với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi vòng xung quanh với cái
thang; điều này nghĩa là không có khoảng trống xung quanh.
[529] Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến,
...(như trên)... hoặc không kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều
chướng ngại.
[530] Có khoảng trống xung quanh nghĩa là có thể đi vòng với chiếc
xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này
nghĩa là có khoảng trống xung quanh.
[531] Trú xá lớn nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc
được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Cho xây dựng: là (tự mình) làm hoặc bảo người làm.
Hoặc không dẫn các vị tỳ khưu đến để xác định khu đất: sau khi
không cho xác định khu đất làm trú xá bằng hành sự với lời đề nghị và lời thông
báo rồi (tự) làm hoặc bảo người làm thì tội dukkaṭa (tác ác) cho mỗi thao tác.
Còn cục (vữa tô) cuối cùng thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Khi cục (vữa
tô) ấy đã được đặt vào thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”
[532] Các trường hợp phạm tội
[532] Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng
tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội
dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng
tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất không được xác định, không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu làm trú xá ở khu đất đã được xác định, không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[533] Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi.” Các vị
làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không
có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội
dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung
quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội
dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh
thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi.” Các vị làm trú
xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng
trống xung quanh thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[534] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi
ra đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều
chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu
đất không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như
trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa
và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống
xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có
điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra
đi và không có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã
được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì phạm
hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không
có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[535] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy
nghe rằng: “Nghe nói trú xá được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có
điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích
thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có
điều chướng ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc
phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... “Hãy là khu
đất được xác định và không có điều chướng ngại.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất
được xác định và có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... “Hãy là khu đất
được xác định.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra
đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại,
và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được
xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Vị ấy nghe rằng:
“Nghe nói trú xá được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại,
không có khoảng trống xung quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người
đưa tin rằng: “Hãy (là) không có điều chướng ngại và có khoảng trống xung
quanh.” ...(như trên)... “Hãy (là) không có điều chướng ngại.” ...(như trên)...
“Hãy (là) có khoảng trống xung quanh.” ...(như trên)... thì vô tội.
[536] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi
ra đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng
ngại, và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất
không được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì
các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng
ngại, có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra
đi và có chỉ thị rằng: “Hãy là khu đất được xác định, không có điều chướng ngại,
và có khoảng trống xung quanh.” Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được
xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây
dựng phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có
khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)...
không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh thì các vị xây dựng
phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống
xung quanh thì vô tội.
[537] Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi
ra đi. Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có điều chướng
ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì
vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu
không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm tội saṅghādisesa
(tăng tàng) và hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại,
có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa.
...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh
... thì phạm tội saṅghādisesa và tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều
chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu sau khi chỉ thị rằng: “Hãy làm trú xá cho tôi” rồi ra đi. Các vị làm trú xá cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho trú xá ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, không có khoảng trống xung quanh ... thì phạm tội dukkaṭa. ...(như trên)... không có điều chướng ngại, có khoảng trống xung quanh thì vô tội.
[538] Các yếu tố xác định tội
[538] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
[539] Các trường hợp không phạm
tội
[539] Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, chòi cỏ, vì nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều saṅghādisesa (tăng tàng)
thứ bảy
Xem tiếp Chương 6 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments