Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 1
Chương 5. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ)
11. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười một: Ủng hộ kẻ chia rẽ hội chúng
Mục Lục
[602] Câu chuyện về các tỳ-khưu ủng hộ sự chia rẽ. Sự quy định điều
học
[603] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[605] Tuyên ngôn nhắc nhở
[607] Các yếu tố xác định tội
[608] Các trường hợp không phạm tội
Nội Dung
[602] Câu chuyện về các tỳ-khưu
ủng hộ sự chia rẽ. Sự quy định điều học
[602] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Vel,uvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Devadatta là người nói sai Pháp, Devadatta là người nói sai Luật.
Vì sao Devadatta lại ra sức chia rẽ hội chúng, tức là việc phân chia quyền lãnh
đạo vậy?
Khi được nói như thế,
Kokālika, Kaṭamorakatissaka con trai của Khaṇḍadevī, và Samuddadatto đã nói với
các vị tỳ khưu ấy như vầy:
- Các đại đức chớ có nói như thế. Devadatta là người nói đúng
Pháp. Devadatta là người nói đúng Luật. Devadatta nắm được và phát biểu về ước
muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều
ấy hợp ý chúng tôi.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội chúng, các tỳ
khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ
khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội
chúng, các tỳ khưu lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly khai, có
đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, .
.(như trên)... Này các tỳ khưu, vì sao trong khi Devadatta ra sức chia rẽ hội
chúng, những kẻ rồ dại ấy lại là những kẻ ủng hộ tức là những kẻ tuyên bố ly
khai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa
có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học
này như vầy: “Các tỳ khưu là những kẻ ủng hộ của chính vị tỳ khưu ấy tức là những
kẻ tuyên bố ly khai dầu là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ấy nói
như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì về vị tỳ khưu này. Vị tỳ khưu
này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu
này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ấy hiểu
và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.’ Các vị tỳ khưu ấy nên
được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu
này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói
đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức
hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ,
chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy
mà các vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì các vị tỳ khưu ấy nên được các
tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ
ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội
saṅghādisesa (tăng tàng).”
[603] Giải nghĩa từ ngữ của điều
học
[603] Của chính vị ấy: là của chính vị tỳ khưu chia rẽ hội chúng.
Các tỳ khưu là: Các vị tỳ khưu khác là.
Những kẻ ủng hộ: (Vị chia rẽ hội chúng) có quan điểm gì, có điều
mong mỏi gì, có sự thích ý gì thì các vị ấy cũng có quan điểm ấy, có điều mong
mỏi ấy, có sự thích ý ấy.
Những kẻ tuyên bố ly khai: là những vị đứng trong phe, trong nhóm
của vị ấy.
Một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị: là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba
vị, và các vị ấy nói như vầy: “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì về vị tỳ
khưu này. Vị tỳ khưu này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này là người nói
đúng Luật. Vị tỳ khưu này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ý của
chúng tôi, vị ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.”
[604] Các vị tỳ khưu ấy: các vị tỳ khưu là những kẻ ủng hộ.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các
vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ
khưu này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người
nói đúng Luật. Các đại đức chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức
hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ,
chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên
được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu
không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Các vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói
rằng: “Các đại đức chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu này không phải là người nói
đúng Pháp. Vị tỳ khưu này không phải là người nói đúng Luật. Các đại đức chớ có
thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các đại đức hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội
chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được
an lạc.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị
ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[605] Tuyên ngôn nhắc nhở
[605] Các vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên
(như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra
sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ
sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở
các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề
nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên
(như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra
sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ tuyên bố ly khai. Các vị ấy không dứt bỏ
sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt
bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và
tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói
lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) là những kẻ
ủng hộ của tỳ khưu tên (như vầy) đang ra sức chia rẽ hội chúng, tức là những kẻ
tuyên bố ly khai. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy)
để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu tên (như vầy)
và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể
nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc
nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi
ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[606] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya
(trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt
tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với các vị vi phạm
tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai
lời thông báo của hành sự hết hiệu lực. Hai ba vị nên được nhắc nhở chung (một
lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng đó.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là
“tội saṅghādisesa.”
[607] Các yếu tố xác định tội
[607] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, các vị không dứt bỏ thì phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị không
dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[608] Các trường hợp không phạm
tội
[608] Các vị chưa được nhắc nhở, các vị dứt bỏ, các vị có tâm bị rối loạn, các vị bị thọ khổ hành hạ, các vị bị điên, các vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều saṅghādisesa (tăng tàng)
thứ mười một
Xem tiếp Chương 6 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments