Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 1
Chương 5. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ)
12. Điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) thứ mười hai: Vị tỳ-khưu có bản tánh khó dạy
Mục Lục
[609] Câu chuyện về tỳ-khưu Channa. Sự quy định điều học
[610] Giải nghĩa từ ngữ của điều học
[612] Tuyên ngôn nhắc nhở
[614] Các yếu tố xác định tội
[615] Các trường hợp không phạm tội
Nội Dung
[609] Câu chuyện về tỳ-khưu
Channa. Sự quy định điều học
[609] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử sai nguyên tắc.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức Channa, chớ có làm điều như vậy. Việc ấy không được
phép.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, điều gì khiến các ngươi nghĩ là ta cần được dạy
bảo? Chính ta mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng ta, Giáo Pháp là
của chúng ta, Giáo Pháp đã được chứng đạt bởi ngài thái tử của chúng ta. Cũng
giống như cơn gió mạnh thổi qua thì gom tụ cỏ, cành khô, lá rụng đó đây chung lại
thành đống; hoặc cũng giống như dòng sông phát xuất từ ngọn núi thì gom tụ các
loại rong rêu chung lại thành đống; tương tợ như thế, các ngươi có tên khác
nhau, có họ khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có gia tộc khác nhau đã được xuất
gia và quy tụ chung lại. Điều gì khiến các ngươi nghĩ là ta cần được dạy bảo?
Chính ta mới nên dạy bảo các ngươi. Đức Phật là của chúng ta, Giáo Pháp là của
chúng ta, Giáo Pháp đã được chứng đạt bởi ngài thái tử của chúng ta.
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa
thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp, đại đức
Channa lại tỏ ra ương ngạnh?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ
khưu lại và đã hỏi đại đức Channa rằng:
- Này Channa, nghe nói trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng
theo Pháp, ngươi lại tỏ ra ương ngạnh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, . .(như trên)... không nên
làm. Này kẻ rồ dại, vì sao trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp,
ngươi lại tỏ ra ương ngạnh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các
ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy,[6]
trong khi được dạy bảo bởi các tỳ khưu về các điều học thuộc về giới bổn lại tỏ
ra ương ngạnh: ‘Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì đến tôi dầu là tốt hay là
xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều gì đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu.
Các đại đức hãy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi
các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy tỏ ra là người
dễ dạy. Đại đức hãy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy
bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được
phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.’ Và khi
được nói như vậy bởi các tỳ khưu mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị
tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu
được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu
không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”
[610] Giải nghĩa từ ngữ của điều
học
[610] Ngay cả vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy: là vị khó dạy, là hội đủ các đức tính làm cho vị ấy trở thành khó dạy, không nhẫn nhịn, không nghiêm chỉnh thọ nhận sự giáo huấn.
Về các điều học thuộc về giới bổn: về các điều học thuộc về giới
bổn Pātimokkha.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác.
Đúng theo Pháp nghĩa là điều học nào đã được đức Thế Tôn quy định,
điều ấy nghĩa là đúng theo Pháp. Khi được dạy bảo với điều ấy, lại tỏ ra ương
ngạnh: “Các đại đức chớ có nói bất cứ điều gì đến tôi dầu là tốt hay là xấu;
tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều gì đến các đại đức dầu là tốt hay là xấu. Các
đại đức hãy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.”
[611] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu có bản tánh khó dạy.
Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các
vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy
tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hãy dạy bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ
khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức
Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn
nhau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt
bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng:
“Đại đức chớ tỏ ra ương ngạnh, đại đức hãy tỏ ra là người dễ dạy. Đại đức hãy dạy
bảo các tỳ khưu đúng theo Pháp, các tỳ khưu cũng sẽ dạy bảo đại đức đúng theo
Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự
dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên
được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu
không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[612] Tuyên ngôn nhắc nhở
[612] Vị tỳ khưu ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương
ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng,
hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời
đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này
tên (như vầy) trong khi được các tỳ khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương
ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy)
để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy)
để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được các tỳ
khưu dạy bảo đúng theo Pháp lại tỏ ra ương ngạnh. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy.
Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng
ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị
nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự
việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.”
[613] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya
(trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt
tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị vi phạm tội
saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời
thông báo của hành sự hết hiệu lực.
Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là
“tội saṅghādisesa.”
[614] Các yếu tố xác định tội
[614] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội
saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt
bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[615] Các trường hợp không phạm
tội
[615] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều saṅghādisesa (tăng tàng)
thứ mười hai
Xem tiếp Chương 6 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments