Tạng Luật - Phân Tích Giới Tì Khưu Tập 1 - Chương 5 - Điều Tăng Tàng 13

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)

Tập 1

Chương 5. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍa)

13. Điều Tăng tàng (Saghādisesa) thứ mười ba: Làm hư hỏng các gia đình

Mục Lục

[616] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Assaji và Punabbasuka

[620] Câu chuyện về trưởng lão Sāriputta và Moggallāna. Hành sự xua đuổi

[623] Sự quy định điều học

[624] Giải nghĩa từ ngữ của điều học

[628] Tuyên ngôn nhắc nhở

[630] Các yếu tố xác định tội

[631] Các trường hợp không phạm tội

[632] Tổng kết chương Mười Ba Pháp. Bài kệ tóm lược

Nội Dung

[616] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Assaji và Punabbasuka

 [616] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị nhóm Assaji và Punabbasuka[7] thường trú[8] tại vùng Kiṭāgiri (núi Kiṭā) là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.

[617] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đã mặc y, cầm y bát, và đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Vị ấy có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duổi. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói như vầy:

- Người này là ai mà trông giống như kẻ ngu trong nhóm người ngu, giống như kẻ khờ trong nhóm người khờ, giống như kẻ ngớ ngẩn trong nhóm người ngớ ngẩn vậy? Khi gã đi đến, ai mà chịu bố thí đồ ăn đây? Trong khi các ngài thuộc nhóm Assaji và Punabbasuka của chúng ta thì lịch thiệp, thân thiện, nói năng hòa nhã, luôn cười xã giao, luôn mời mọc đến thăm viếng, không có hợm hĩnh, khuôn mặt lại rạng rỡ, luôn mở đầu câu chuyện; chính vì thế, đồ ăn khất thực nên được cúng dường đến các ngài.

Có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này:

- Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?

- Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.

- Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.

Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã dẫn vị tỳ khưu ấy về nhà, dâng thức ăn, và đã nói điều này:

- Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?

- Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.

- Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, ...(như trên)... Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.”

- Này đạo hữu, được rồi.

Vị tỳ khưu ấy sau khi lắng nghe nam cư sĩ ấy đã ra đi về hướng thành Sāvatthi. Tuần tự, vị ấy đã đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

[618] Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này tỳ khưu, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đến vậy?

- Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, con đi đường xa không mệt lắm. Bạch ngài, con đây đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Bạch ngài, khi ấy vào buổi sáng con đã mặc y, cầm y bát, đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Bạch ngài, có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy con đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần con, sau khi đến đã đảnh lễ con và đã nói điều này: “Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?” “Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.” “Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.” Bạch ngài, khi ấy nam cư sĩ ấy đã dẫn con về nhà, dâng thức ăn, rồi đã nói điều này: “Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?” “Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.” “Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, ...(như trên)... Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.” Bạch Thế Tôn, con từ xứ đó đi đến.

[619] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. … (như trên) … . Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, … (như trên) … Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại hành xử sai nguyên tắc có hình thức như thế? Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây mộ đạo, có niềm tin, bây giờ không còn mộ đạo, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.

[620] Câu chuyện về trưởng lão Sāriputta và Moggallāna. Hành sự xua đuổi

 [620] Sau đó, khi đã khiển trách các vị tỳ khưu Assaji và Punabbasuka bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp thoại rồi bảo Sāriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallāna (Mục Kiền Liên) rằng:

- Này Sāriputta và Moggallāna, hai ngươi hãy đi đến vùng Kiṭāgiri rồi hãy thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, các vị này là những đệ tử của hai ngươi.[9]

- Bạch ngài, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka thì dữ tợn và thô lỗ, làm thế nào chúng con thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu ấy được?

- Này Sāriputta và Moggallāna, chính vì điều ấy hai ngươi hãy đi cùng với nhiều vị tỳ khưu.

- Bạch ngài, xin vâng. Sāriputta và Moggallāna đã trả lời đức Thế Tôn.

[621] - Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì các vị này không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[622] Sau đó, hội chúng tỳ khưu dẫn đầu là Sāriputta và Moggallāna đã đi đến vùng Kiṭāgiri và đã thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: “Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.” Khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các vị ấy không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh,[10] không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ bỏ đi, họ hoàn tục.

Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, họ lại bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ lại bỏ đi, họ lại hoàn tục?

[623] Sự quy định điều học

 [623] Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình bày sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, nghe nói khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương do có sự thiên vị vì ghét do có sự thiên vị vì si mê do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ bỏ đi, họ hoàn tục, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, ...(như trên)... Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, ...(như trên)... lại hoàn tục vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của vị ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì vị ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!’ Và khi được nói như thế bởi các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: ‘Các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi, cùng với tội như nhau họ lại xua đuổi vị này, họ lại không xua đuổi vị kia.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).”

[624] Giải nghĩa từ ngữ của điều học

 [624] Vị tỳ khưu (sống nương tựa) vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ: là ngôi làng, là thị trấn, là thành phố, là ngôi làng và luôn cả thị trấn.

Sống nương tựa: các vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bịnh là phụ thuộc vào nơi ấy.

Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: Gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.

Kẻ làm hư hỏng các gia đình: là kẻ làm các gia đình trở thành hư hỏng với bông hoa, hoặc với trái cây, hoặc với bột tắm, hoặc với với đất sét, hoặc với gỗ chà răng, hoặc với tre, hoặc bằng cách thức chữa bệnh, hoặc bằng cách đi bộ đưa tin.

Có hành động sai trái: vị trồng bông hoa, vị bảo kẻ khác trồng, vị tưới bông hoa, vị bảo kẻ khác tưới, vị hái bông hoa, vị bảo kẻ khác hái, vị kết lại bông hoa, vị bảo kẻ khác kết lại.

[625] Không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa: Những ai có mặt thì nhìn thấy, những ai vắng mặt thì nghe.

Các gia đình bị hư hỏng vì vị ấy: Trước kia họ mộ đạo, vì vị ấy họ trở nên không còn mộ đạo. Họ đã có niềm tin trở thành không có niềm tin.

Không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa: Những ai có mặt thì nhìn thấy, những ai vắng mặt thì nghe.

[626] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu làm hư hỏng các gia đình.

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!” Và khi được các tỳ khưu nói như thế, vị tỳ khưu ấy lại nói với các tỳ khưu ấy như vầy: “Các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi, cùng với tội như nhau các vị lại xua đuổi vị này, các vị lại không xua đuổi vị kia.”

[627] Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu được thực thi hành sự.

Bởi các tỳ khưu: là bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!”

Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng và nên được nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Các tỳ khưu không có sự thiên vị vì thương, không có sự thiên vị vì ghét, không có sự thiên vị vì si mê, không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính đại đức là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì đại đức không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Đại đức hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với đại đức đã đủ rồi!” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[628] Tuyên ngôn nhắc nhở

 [628] Vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) khi được hội chúng thực thi hành phạt xua đuổi lại lên án các tỳ khưu có sự thiên vị vì thương, có sự thiên vị vì ghét, có sự thiên vị vì si mê, có sự thiên vị vì sợ hãi. Vị ấy không dứt bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[629] Tội dukkaṭa (tác ác) do lời đề nghị. Các tội thullaccaya (trọng tội) do hai lời thông báo của hành sự (dvīhi kammavācāhi). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng). Đối với vị vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.

Tội saṅghādisesa (tăng tàng): Chỉ có hội chúng–không phải một số vị, không phải một cá nhân–ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, cho giải tội; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

[630] Các yếu tố xác định tội

 [630] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[631] Các trường hợp không phạm tội

 [631] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ,[11] vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Hết điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ mười ba

[632] Tổng kết chương Mười Ba Pháp. Bài kệ tóm lược

 [632] Bạch chư đại đức, mười ba điều saṅghādisesa (tăng tàng) đã được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, bốn điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này và che giấu biết được bao nhiêu ngày thì vị tỳ khưu ấy phải chịu hành phạt parivāsa không theo ý muốn bấy nhiêu ngày. Vị tỳ khưu đã trải qua hành phạt parivāsa nên thực hành thêm sáu đêm mānatta dành cho tỳ khưu. Vị tỳ khưu có hành phạt mānatta đã được hoàn tất thì vị tỳ khưu ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ấy thì vị tỳ khưu ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.

Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?

Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Hết Chương Mười Ba Pháp

Tóm lược chương này:

Sự xuất ra (tinh dịch),

việc xúc chạm cơ thể,

(nói lên) lời dâm dật,

tình dục cho bản thân,

mai mối, và liêu cốc,

trú xá, không nguyên cớ,

điều nhỏ nhặt nào đó,

và chia rẽ (hội chúng),

kẻ ủng hộ vị ấy,

và (ương ngạnh) khó nói,

làm hư các gia đình,

là mười ba điều học

saṅghādisesa.

[1] Ekuddeso: chung sự đọc tụng giới bổn Pātimokkha đang được hiện hành (theo ngài Buddhaghosa).

[2] Xin xem Đại Phẩm - Mahāvagga, chương Kosambī thứ X.

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích là “... nắm lấy các tay và các chân kéo đến giữa hội chúng ...”

[4] Sở dĩ không đề cập đến tội thullaccaya thứ ba vì khi dứt câu: “Yassa nakkhamati so bhāseyya” ở chữ “yya” thì vị ấy phạm tội saṅghādisesa nên không thành lập tội thullaccaya thứ ba.

[5] Hai điều “vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ,” tạng Thái Lan có chú thích rằng: “Được thấy ở các sách khác.”

[6] Về vấn đề này, ngài Buddhaghosa đề cập đến bài kinh Anumānasutta thuộc Majjhimanikāya I (HT Minh Châu dịch là Kinh Tư Lượng số 15 của Kinh Trung Bộ 1).

[7] Theo ngài Buddhaghosa, hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Theo thứ tự được ngài trình bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở thành Sāvatthi, hai vị khác đã được đề cập trước đây là Mettiya và Bhummajaka ở thành Rājagaha, và hai vị này ở vùng Kīṭāgiri.

[8] Được gọi là “āvāsika” nghĩa là trong trường hợp ấy chỗ trú ngụ (āvāso) tức là trú xá (vihāra) thuộc về vị ấy. Vị thường trú có trách nhiệm làm mới, sửa chữa những chỗ củ kỹ, v.v... được gọi là “āvāsika” còn vị chỉ thuần túy cư ngụ thôi thì gọi là “nevāsika” (Theo ngài Buddhaghosa).

[9] Ngài Buddhaghosa còn cho biết rằng hai tỳ khưu này (luôn cả sáu vị được gọi là Lục Sư) đều đã được xuất gia với hai vị Tối thượng Thinh Văn này, đã sống nương nhờ tròn đủ 5 năm, và có học thuộc lòng các đầu đề (mātikā).

[10] Theo ngài Buddhaghosa là 18 phận sự của vị bị thực thi hành sự xua đuổi (Xin xem Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương I, [119]).

[11] Hai điều “vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ” tạng Thái Lan có chú thích rằng: “Không được thấy ở tạng Miến Điện.”

Hết Chương 5Xem tiếp Chương 6 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments