Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunivibhanga)
Chương 4. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 6. Tu Viện
Mục Lục
51. Điều học thứ nhất (Đi vào
tu viện không báo trước)
[328] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định lần thứ nhất.
[329] Sự quy định thêm lần thứ nhất. Sự quy định thêm lần thứ nhì
52. Điều học thứ nhì (Mắng nhiếc
hoặc nguyền rủa tỳ-khưu)
[334] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni nhóm Lục Sư. Sự quy định
53. Điều học thứ ba: (Bị kích
động rồi chửi rủa nhóm)
[338] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Caṇḍakālī. Sự quy định
54. Điều học thứ tư (Thọ thực
xong lại thọ thực ở nơi khác)
[342] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
55. Điều học thứ năm (Bỏn xẻn
về gia đình)
[346] Câu chuyện về vị tỳ-khưu nọ. Sự quy định
56. Điều học thứ sáu (Mùa (an
cư) mưa tại trú xứ không có tỳ-khưu)
[349] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
57. Điều học thứ bảy (Không thực
hiện lễ Pavāraṇā ở cả hai hội chúng)
[352] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
58. Điều học thứ tám (Không đi
giáo giới)
[355] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni nhóm Lục Sư. Sự quy định
59. Điều học thứ chín (Không hỏi về lễ Uposatha và
không thỉnh cầu sự giáo giới)
[358] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
60. Điều học thứ mười (Cùng
người nam nặn mụt nhọt ở phần dưới thân)
[361] Câu chuyện về vị tỳ-khưu ni nọ. Sự quy định
Nội Dung
51. Điều học thứ nhất (Đi vào
tu viện không báo trước)
[328] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu chỉ mặc
có một y đang làm công việc may y ở trú xứ là thôn làng. Các tỳ khưu ni không
báo trước đã đi vào tu viện rồi đi đến gặp các tỳ khưu ấy. Các tỳ khưu phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại
đi vào tu viện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi chưa báo trước lại
đi vào tu viện vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào chưa báo trước mà đi vào tu viện thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định
cho các tỳ khưu ni như thế.
[329] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy đã rời khỏi trú xứ ấy.
Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi khỏi” nên đã không đi đến
tu viện. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ
khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã báo trước rồi đi vào
tu viện và đã đi đến gặp các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu ấy
rồi đứng ở một bên. Các vị tỳ khưu ấy đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một
bên điều này:
- Này các sư tỷ, tại sao các vị lại không quét tu viện cũng không đem lại nước uống
nước rửa?
- Thưa các ngài đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng:
“Khi chưa báo trước không được đi vào tu viện;” vì thế chúng tôi đã không đến.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào tu viện có báo trước vị tỳ
khưu hiện hiện. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện mà đi vào tu viện
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy
định cho các tỳ khưu ni như thế.
[330] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy sau khi đi khỏi trú xứ ấy
đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức
đã đi đến” nên đã đi vào tu viện không báo trước. Sự ngần ngại đã khởi lên cho
các vị ni ấy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Chưa báo trước vị tỳ
khưu hiện diện không được đi vào tu viện;’ và chúng ta chưa báo trước vị tỳ
khưu hiện diện đã đi vào tu viện, phải chăng chúng ta đã phạm tội pācittiya?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
...(như trên)...
- Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào biết tu viện có tỳ khưu, chưa báo trước lại đi vào
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[331] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị
ni ấy, hoặc các vị (tỳ khưu) ấy thông báo.
Tu viện có tỳ khưu nghĩa là nơi nào có các tỳ khưu cư ngụ cho dù ở
gốc cây.
Chưa báo trước lại đi vào tu viện: khi chưa báo trước vị tỳ khưu
hoặc vị sa di hoặc người phụ việc chùa, trong khi vượt qua hàng rào của tu viện
được rào lại vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong khi đi vào vùng phụ
cận của tu viện không được rào lại vị ni phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[332] Nơi có tỳ khưu, nhận biết là có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện
chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nơi có tỳ khưu, có sự hoài nghi, vị ni đi vào tu viện chưa báo
trước vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi có tỳ khưu, (lầm) tưởng không có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện
chưa báo trước vị tỳ khưu hiện diện thì vô tội.
Nơi không có tỳ khưu, (lầm) tưởng là có tỳ khưu, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi không có tỳ khưu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nơi không có tỳ khưu, nhận biết là không có tỳ khưu thì vô tội.
[333] Vị ni đi vào có báo trước vị tỳ khưu hiện diện, khi không
có vị tỳ khưu hiện diện vị ni đi vào không có báo trước, vị ni đi nhìn theo đầu
(các vị ni đi vào trước), vị ni đi vào nơi các tỳ khưu ni đang tụ hội, con đường
băng ngang qua tu viện, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên,
vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
52. Điều học thứ nhì (Mắng nhiếc
hoặc nguyền rủa tỳ-khưu)
[334] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī,
Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức
Upāli là đại đức Kappitaka [1] ngụ ở mộ địa. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni trưởng
thượng của các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư qua đời. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã
đưa (thi thể) vị tỳ khưu ni ấy đi, thiêu xác ấy, và đã làm bảo tháp ở nơi không
xa trú xá của đại đức Kappitaka, rồi thường đi đến nơi bảo tháp ấy khóc lóc.
Khi ấy, đại đức Kappitaka bị quấy rầy bởi tiếng khóc ấy nên đã đập vỡ bảo tháp ấy
rồi phân tán. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã hội ý rằng:
- Kappitaka này đã phá vỡ bảo tháp của ni sư chúng ta, chúng ta
hãy giết lão đi.
Có vị tỳ khưu ni nọ đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Upāli. Đại đức
Upāli đã đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Kappitaka. Khi ấy, đại đức Kappitaka
đã rời khỏi trú xá rồi ẩn nấp chờ đợi. Sau đó, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đi
đến trú xá của đại đức Kappitaka, sau khi đến đã làm cho trú xá của đại đức
Kappitaka bị bao trùm bởi những hòn đá và đất cục rồi bỏ đi (nghĩ rằng):
“Kappitaka đã chết!” Sau đó khi trải qua đêm ấy, vào buổi sáng đại đức
Kappitaka đã mặc y cầm y bát đi vào thành Vesālī để khất thực. Các tỳ khưu ni
nhóm Lục Sư đã nhìn thấy đại đức Kappitaka đang đi khất thực, sau khi nhìn thấy
đã nói như vầy:
- Kappitaka này còn sống. Vậy ai đã tiết lộ kế hoạch của chúng
ta?
Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã nghe được rằng: “Nghe nói kế hoạch
của chúng ta đã bị tiết lộ bởi ngài đại đức Upāli.” Các vị ni ấy đã mắng nhiếc
đại đức Upāli rằng:
- Tại sao gã thợ cạo lau chùi bụi bặm và dòng dõi hạ tiện này lại
tiết lộ kế hoạch của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc ngài đại đức
Upāli?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mắng nhiếc
Upāli, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc
Upāli vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào mắng nhiếc hoặc nguyền rủa tỳ khưu thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[335] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu: là người nam đã tu lên bậc trên.
(Hoặc) mắng nhiếc: (hoặc là) vị mắng nhiếc theo mười sự việc
trong sự mắng nhiếc[2] hoặc với bất cứ điều nào của những điều này thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc nguyền rủa: vị gây ra sự sợ hãi thì phạm tội pācittiya (ưng
đối trị).
[336] Người nam đã tu lên
bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni mắng nhiếc
hoặc nguyền rủa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc
trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị mắng nhiếc hoặc nguyền rủa người nam chưa tu lên bậc trên thì
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc
trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc
trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[337] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến
Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
53. Điều học thứ ba: (Bị kích
động rồi chửi rủa nhóm)
[338] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī là vị ni thường gây nên các sự xung đột,
các sự cãi cọ, các sự tranh luận, các sự nói chuyện nhảm nhí, và các sự tranh tụng
trong hội chúng. Trong khi hành sự đang được thực thi đối với vị ni ấy, tỳ khưu
ni Thullanandā phản đối.
[339] Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vào làng vì
công việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Tỳ khưu ni
Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỳ khưu ni Caṇḍakālī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ
khưu ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã trở về
lại thành Sāvatthi. Trong khi tỳ khưu ni Thullanandā đi về, tỳ khưu ni Caṇḍakālī đã không sắp xếp chỗ ngồi, không đem lại
nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã
không dâng nước uống. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakālī điều này:
- Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô lại không sắp xếp chỗ
ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra
tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?
- Thưa ni sư, bởi vì việc này là như thế, giống như người không
được sự quan tâm.
- Này cô ni, vì sao cô lại không được sự quan tâm?
- Thưa ni sư, các tỳ khưu ni này (nói rằng): “Cô này không được sự
quan tâm lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối” rồi đã phạt
án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.
Tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm rằng: “Những
cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự
hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của
hành sự.” Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi
chửi rủa nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi
chửi rủa nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bị kích động rồi chửi rủa nhóm thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).”
[340] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Bị kích động nghĩa là sự giận dữ được đề cập đến.
Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Chửi rủa: vị ni chửi rủa rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy
không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự
hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự” thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni chửi rủa nhiều vị tỳ khưu ni hoặc một vị tỳ khưu
ni hoặc người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[341] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến
Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
54. Điều học thứ tư (Thọ thực
xong lại thọ thực ở nơi khác)
[342] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ
đã thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỳ khưu ni. Khi thọ thực xong và đã từ chối
(vật thực dâng thêm), các tỳ khưu ni đã đi đến các gia đình thân quyến rồi một
số vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi. Sau đó, người
bà-la-môn ấy đã nói với hàng xóm điều này:
- Này quý ông, các tỳ khưu ni đã được tôi làm hài lòng. Hãy đến,
tôi cũng sẽ làm hài lòng quý ông.
Những người ấy đã nói như vầy:
- Này ông, có phải ông sẽ làm hài lòng chúng tôi không? Ngay cả
những vị ni đã được ông thỉnh mời lại còn đi đến các nhà của chúng tôi, một số
vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni sau khi thọ thực trong nhà của chúng tôi
lại thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước
muốn hay sao?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng
thêm) lại thọ thực ở nơi khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ
chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ
chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này
các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni
nào đã được thỉnh mời hoặc đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật
thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[343] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Đã được thỉnh mời nghĩa là được thỉnh mời với loại vật thực nào
đó của năm loại vật thực.
Đã từ chối (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật
thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực)
được ghi nhận, (vật thực) đã bị khước từ được ghi nhận.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết
đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực
cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh,
cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[344] Khi đã được thỉnh mời, nhận biết là đã được thỉnh mời, vị
ni nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).
Khi đã được thỉnh mời, có sự hoài nghi, vị ni nhai hoặc ăn vật thực
cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Khi đã được thỉnh mời, (lầm) tưởng là chưa được thỉnh mời, vị ni
nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.
Vị ni nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật
dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[345] Vị ni đã được thỉnh mời nhưng chưa từ chối (vật thực dâng
thêm), vị ni uống cháo, vị ni hỏi trước các chủ nhân rồi thọ thực, vị ni thọ dụng
vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ,
vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
55. Điều học thứ năm (Bỏn xẻn
về gia đình)
[346] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ
trong lúc đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthi đã đi đến gia đình nọ,
sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy
sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều này:
- Thưa ni sư, luôn cả các tỳ khưu ni khác hãy đi đến.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ
khưu ni khác không đi đến?” nên khi đi đến gặp các tỳ khưu ni đã nói điều này:
- Này các ni sư, ở chỗ đàng kia chó thì dữ tợn bò thì hung bạo,
là khu vực đầm lầy, chớ có đi đến chỗ ấy.
Có vị tỳ khưu ni khác trong khi đi khất thực ở con đường ấy cũng
đã đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn.
Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều
này:
- Thưa ni sư, tại sao các tỳ khưu ni khác không đi đến?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao vị tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni bỏn xẻn về gia đình, có
đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình vậy?
Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào bỏn xẻn về gia đình thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).”
[347] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ
(khattiya), gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng
đinh.
Bỏn xẻn: vị ni (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ khưu ni khác
không đi đến?” rồi nói xấu về gia đình trong sự hiện diện của các tỳ khưu ni
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni nói xấu về các tỳ khưu ni trong sự
hiện diện của gia đình thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[348] Trong khi không bỏn xẻn về gia đình vị ni giải thích về điều
bất tiện đang hiện hữu, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
56. Điều học thứ sáu (Mùa (an
cư) mưa tại trú xứ không có tỳ-khưu)
[349] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni
khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành
Sāvatthi. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn sự giáo
giới đã có hiệu quả?
- Này các ni sư, ở nơi ấy không có các tỳ khưu, do đâu mà sự giáo
giới sẽ có hiệu quả?
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không
có tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sống mùa (an cư) mưa tại
trú xứ không có tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa
tại trú xứ không có tỳ khưu? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sống mùa (an cư) mưa tại
trú xứ không có tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[350] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Trú xứ không có tỳ khưu nghĩa là không thể đi vì việc giáo giới
hoặc vì việc đồng cộng trú. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ sống mùa (an cư) mưa” rồi
sắp xếp chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Với sự mọc lên của mặt trời thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[351] Các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bỏ đi hoặc hoàn tục
hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị
điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
57. Điều học thứ bảy (Không thực
hiện lễ Pavāraṇā ở cả hai hội chúng)
[352] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni
khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành
Sāvatthi. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn đã thỉnh
cầu[3] nơi hội chúng tỳ khưu?
- Này các ni sư, chúng tôi không có thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ
khưu.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh
cầu nơi hội chúng tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an
cư) mưa không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư)
mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này
không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi
trải qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống
là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[353] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Khi trải qua mùa (an cư) mưa nghĩa là đã sống (an cư mùa mưa) ba
tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa
trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ,”
trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[354] Khi có nguy hiểm, sau khi tầm cầu nhưng không đạt được, vị
ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì
vô tội.
58. Điều học thứ tám (Không đi
giáo giới)
[355] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya
(Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy
giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến chỗ trú ngụ của các tỳ khưu ni rồi
giáo giới các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni
nhóm Lục Sư điều này:
- Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi (nghe) giáo giới.
- Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy
nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đi đến ngay tại đây rồi giáo giới chúng tôi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không đi
giáo giới, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi
giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc
đồng cộng trú thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[356] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.
Việc đồng cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng
(giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc
đồng cộng trú,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).
[357] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị
tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
59. Điều học thứ chín (Không hỏi
về lễ Uposatha và không thỉnh cầu sự giáo giới)
[358] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hỏi
về lễ Uposatha (Bố Tát) cũng không thỉnh cầu sự giáo giới. Các tỳ khưu phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh
cầu sự giáo giới?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hỏi về lễ
Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha
cũng không thỉnh cầu sự giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ
khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên
mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ khưu: việc hỏi ngày lễ Uposatha và việc đi đến
(để nghe) giáo giới; nếu vượt quá hạn ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[359] Vào mỗi nửa tháng: vào mỗi kỳ Uposatha.
Ngày lễ Uposatha nghĩa là có hai ngày lễ Uposatha: ngày mười bốn
và ngày mười lăm.
Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh
cầu sự giáo giới,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng
đối trị).
[360] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị
tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
60. Điều học thứ mười (Cùng
người nam nặn mụt nhọt ở phần dưới thân)
[361] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ
cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân.
Khi ấy, người nam ấy đã gắng sức để làm ô uế vị tỳ khưu ni. Vị tỳ khưu ni ấy đã
kêu thét lên. Các tỳ khưu ni đã chạy lại và đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vì sao cô đã kêu thét lên?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ xẻ nặn
mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam
với một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với
một nữ xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này
các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni
nào khi chưa xin phép hội chúng hoặc nhóm lại cùng người nam một nam với một nữ
làm cho vỡ ra hoặc xẻ ra hoặc rửa ráy hoặc bôi thuốc hoặc băng lại hoặc tháo
băng mụt nhọt hoặc vết loét phát sanh ở phần dưới thân thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị).”
[362] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Ở phần dưới thân nghĩa là từ lỗ rún trở xuống từ đầu gối trở lên.
Phát sanh: được sanh lên tại nơi ấy.
Mụt nhọt nghĩa là bất cứ loại mụt nhọt nào.
Vết loét nghĩa là bất cứ loại vết thương nào.
Khi chưa xin phép: chưa có hỏi ý.
Hội chúng nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Nhóm nghĩa là nhiều vị tỳ khưu ni được đề cập đến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải
ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng làm ô uế.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy làm vỡ ra” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã bị vỡ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy xẻ ra” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được xẻ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy rửa” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được rửa thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy bôi thuốc” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được bôi thuốc thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy băng lại” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được băng lại thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy tháo băng” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); khi đã được tháo băng thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[363] Vị ni bảo làm cho vỡ ra hoặc bảo xẻ ra hoặc bảo rửa hoặc bảo
bôi thuốc hoặc bảo băng lại hoặc bảo tháo băng sau khi đã xin phép, có người nữ
nào đó có sự hiểu biết là người nữ thứ nhì, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu
tiên thì vô tội.
Hết Phần 6. Tu Viện
[1] Theo ngài Buddhaghosa, đại
đức Kappitaka là vị trưởng lão trong số một ngàn đạo sĩ bện tóc được đề cập ở Đại
Phẩm – Mahāvagga tập 1, chương I, [37].
[2] Xem điều pācittiya 2 của tỳ
khưu (Phân Tích Giới Tỳ khưu tập 2, [186]).
[3] Tức là làm lễ Pavāraṇā (Tự Tứ).
0 Comments