Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunivibhanga)
Chương 4. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 7. Sản Phụ
Mục Lục
61. Điều học thứ nhất (Tiếp độ
người nữ mang thai)
[364] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
62. Điều học thứ nhì (Tiếp độ
người nữ còn cho con bú)
[368] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
63. Điều học thứ ba: (Tiếp độ
cô ni tu tập sự chưa thực hành sáu pháp)
[372] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
64. Điều học thứ tư (Tiếp độ
cô ni tu tập sự chưa được hội chúng chấp thuận)
[376] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
65. Điều học thứ năm (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi)
[380] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
66. Điều học thứ sáu (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành điều học thuộc về
sáu pháp trong hai năm)
[384] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
67. Điều học thứ bảy (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành điều học thuộc về
sáu pháp trong hai năm chưa được hội chúng chấp thuận)
[388] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
68. Điều học thứ tám (Sau khi
tiếp độ người nữ đệ tử không dạy dỗ)
[392] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
69. Điều học thứ chín (Không hầu
cận thầy tế độ trong hai năm)
[395] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
70. Điều học thứ mười (Sau khi
tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly khiến chồng bắt lại)
[398] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
Nội Dung
61. Điều học thứ nhất (Tiếp độ
người nữ mang thai)
[364] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
người nữ mang thai. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:
- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư mang bào thai nặng nề!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ mang thai?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ mang
thai, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ
mang thai vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ mang thai thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[365] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Người nữ mang thai nghĩa là có sanh mạng đã thành tựu được đề cập
đến.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn (ācarinī), hoặc là bình
bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[366] Người nữ mang thai, nhận biết là người nữ mang thai, vị ni
tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ mang thai, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Người nữ mang thai, (lầm) tưởng là người nữ không mang thai, vị
ni tiếp độ thì vô tội.
Người nữ không mang thai, (lầm) tưởng là người nữ mang thai, phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ không mang thai, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không mang thai, nhận biết là người nữ không mang thai
thì vô tội.
[367] Vị ni tiếp độ người nữ mang thai (lầm) tưởng là không mang
thai, vị ni tiếp độ người nữ không mang thai (khi) nhận biết là không mang
thai, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
62. Điều học thứ nhì (Tiếp độ
người nữ còn cho con bú)
[368] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
người nữ còn cho con bú. Cô ấy đi khất thực. Dân chúng đã nói như vầy:
- Hãy bố thí đồ khất thực cho ni sư. Ni sư còn có người thứ nhì!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn cho con bú?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ còn
cho con bú, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ còn
cho con bú vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ còn cho con bú thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).”
[369] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Người nữ còn cho con bú nghĩa là người mẹ hoặc là người vú nuôi.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc
là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[370] Người nữ còn cho con bú, nhận biết là người nữ còn cho con
bú, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ còn cho con bú, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ còn cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ không cho con
bú, vị ni tiếp độ thì vô tội.
Người nữ không cho con bú, (lầm) tưởng là người nữ còn cho con
bú, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không cho con bú, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ không cho con bú, nhận biết là người nữ không cho con bú
thì vô tội.
[371] Vị ni tiếp độ người nữ còn cho con bú (lầm) tưởng là người
nữ không cho con bú, vị ni tiếp độ người nữ không cho con bú (khi) nhận biết là
người nữ không cho con bú, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
63. Điều học thứ ba: (Tiếp độ
cô ni tu tập sự chưa thực hành sáu pháp)
[372] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị
ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được
phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự chưa thực
hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự
chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập
sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu,
sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập
về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự. Và này các tỳ khưu, nên ban cho
như vầy: Cô ni tu tập sự ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai,
đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại
đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp
trong hai năm.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin
hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại
đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp
trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho
sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên
(như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này
tên (như vầy) là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) thỉnh cầu hội
chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự
chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như
vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp
trong hai năm đến cô ni tu tập sự tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng
ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội
chúng ban cho đến cô ni tu tập sự tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý
nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Cô ni tu tập sự ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy:
1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm
trong hai năm.
2. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự lấy vật không được cho (trộm
cắp) không vi phạm trong hai năm.
3. Tôi xin thọ trì việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (hành dâm)
không vi phạm trong hai năm.
4. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự nói dối không vi phạm trong
hai năm.
5. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự dễ duôi uống chất say là rượu
và chất lên men không vi phạm trong hai năm.
6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm
trong hai năm.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều
phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp
độ cô ni tu tập sự chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).”
[373] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban
cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là
y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[374] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp
độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[375] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
64. Điều học thứ tư (Tiếp độ
cô ni tu tập sự chưa được hội chúng chấp thuận)
[376] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng)
chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này,
hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật
này thành được phép.
Các cô ni ấy đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự.
Chúng tôi là các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành
việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ cô ni tu tập sự
đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng
chấp thuận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ cô ni tu tập
sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội
chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp
độ đến cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Và
này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập
về sáu pháp trong hai năm ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên
vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như
vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại
đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ)
thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ.“
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin
hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại
đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ)
thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu
tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây
là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này
tên (như vầy), là cô ni tu tập sự của đại đức ni tên (như vầy) đã thực hành việc
học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về
việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập
sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức
ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tu tập sự
tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm xin im lặng;
vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni
tu tập sự tên (như vầy) đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự
việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều
phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp
độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng)
chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[377] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về
sáu pháp.
Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng
hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc
là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[378] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp
độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[379] Vị ni tiếp độ cô ni tu tập sự đã thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp thuận, vị ni bị điên, vị ni
vi phạm đầu tiên thì vô tội.
65. Điều học thứ năm (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi)
[380] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi. [1] Các cô ấy không có khả năng
chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi,
gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng
không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không
chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Các tỳ khưu
ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa
đủ mười hai tuổi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết
hôn khi chưa đủ mười hai tuổi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã
kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi vậy? Này các tỳ khưu, bởi vì người nữ đã kết
hôn khi chưa đủ mười hai tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự
đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát,
các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ,
nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết
người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người nữ đã kết hôn khi đã
đủ mười hai tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự
xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ
công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc
bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã
sanh khởi. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào tiếp độ người nữ đã kết hôn khi chưa đủ mười hai tuổi thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).”
[381] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ mười hai tuổi nghĩa là chưa đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở
chung với người đàn ông.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc
là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[382] Khi chưa đủ mười hai tuổi, nhận biết là khi chưa đủ mười
hai tuổi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
Khi chưa đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp
độ thì vô tội.
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ mười hai tuổi,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã tròn đủ mười hai tuổi, nhận biết là đã tròn đủ thì vô tội.
[383] Vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi chưa đủ mười hai tuổi
(lầm) tưởng là đã tròn đủ, vị ni tiếp độ (người nữ đã kết hôn) khi đã tròn đủ
mười hai tuổi (với sự) nhận biết là đã tròn đủ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu
tiên thì vô tội.
66. Điều học thứ sáu (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành điều học thuộc về
sáu pháp trong hai năm)
[384] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết
việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)...,
các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn
đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết
hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai
năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã
kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong
hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu
rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập
về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi. Và
này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai
tuổi ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các
tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên
(như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng
sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin
hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên
(như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng
sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp
cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp
trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy).
Đây là lời đề nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này
tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn
đủ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp
trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong
hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy). Đại đức
ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm
đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy) xin im lặng; vị
ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội
chúng ban cho đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi tên (như vầy).
Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như
vậy.”
Người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy nên được nói rằng:
“Cô hãy nói như vầy:
1. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi
phạm trong hai năm.
...(như trên)...
6. Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm
trong hai năm.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều
phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp
độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[385] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở
chung với người đàn ông.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban
cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là
y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[386] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp
độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[387] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi
đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, vị ni vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
67. Điều học thứ bảy (Tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành điều học thuộc về
sáu pháp trong hai năm chưa được hội chúng chấp thuận)
[388] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp độ
người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu
pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận. Các tỳ khưu ni đã
nói như vầy:
- Này các cô ni tu tập sự, hãy đi đến. Hãy nhận biết việc này,
hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có sự cần dùng với vật này, hãy làm vật
này thành được phép.
Các cô ni ấy đã nói như vầy:
- Này các ni sư, chúng tôi không phải là các cô ni tu tập sự.
Chúng tôi là các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn
đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (nhưng)
chưa được hội chúng chấp thuận?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni tiếp độ người nữ đã kết
hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai
năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp độ người nữ đã
kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong
hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận vậy? Này các tỳ khưu, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận về việc tiếp
độ đến người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập
về sáu pháp trong hai năm. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Người nữ đã
kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi ấy đã thực hành việc học tập về sáu pháp
trong hai năm nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở
chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên
(như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học
tập về sáu pháp trong hai năm (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc
tiếp độ.”
Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin
hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên
(như vầy), là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học
tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ) thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc
tiếp độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp
thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ
mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đây là lời đề
nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này
tên (như vầy) thuộc về đại đức ni tên (như vầy), là người nữ đã kết hôn khi
tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, (giờ)
thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận về việc tiếp độ. Hội chúng ban cho sự chấp
thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ
mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Đại đức ni
nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận về việc tiếp độ đến cô ni tên (như vầy)
là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự chấp thuận về việc tiếp độ đã được hội chúng ban cho đến cô ni
tên (như vầy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc
học tập về sáu pháp trong hai năm. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng.
Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều
phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ...(như trên)... Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tiếp
độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về
sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội chúng chấp thuận thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[389] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Tròn đủ mười hai tuổi nghĩa là đã đạt đến mười hai tuổi.
Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở
chung với người đàn ông.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Đã thực hành việc học tập nghĩa là đã thực hành việc học tập về
sáu pháp.
Chưa được chấp thuận nghĩa là sự chấp thuận về việc tiếp độ bằng
hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai chưa được ban cho.
Tiếp độ: cho tu lên bậc trên. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ”
rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc
là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do lời đề nghị thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[390] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp
độ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[391] Vị ni tiếp độ người nữ đã kết hôn khi tròn đủ mười hai tuổi
đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm (và) đã được hội chúng chấp
thuận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
68. Điều học thứ tám (Sau khi
tiếp độ người nữ đệ tử không dạy dỗ)
[392] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā
sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ
trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc được
phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị
ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại
không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ
người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm, có
đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ
người nữ đệ tử lại không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm vậy?
Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không dạy dỗ
cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[393] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Sau khi tiếp độ: sau khi cho tu lên bậc trên.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Không dạy dỗ: không tự mình dạy dỗ bằng cách đọc tụng, bằng sự thẩm
vấn, bằng sự giáo giới, bằng sự chỉ dạy.
Không bảo người dạy dỗ: không chỉ thị cho người khác. Vị ni (nghĩ
rằng): “Ta sẽ không dạy dỗ cũng không bảo người dạy dỗ trong hai năm;” trong việc
buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[394] Khi có sự nguy hiểm, vị ni tầm cầu nhưng không đạt được, vị
ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì
vô tội.
69. Điều học thứ chín (Không hầu
cận thầy tế độ trong hai năm)
[395] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hầu
cận ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có
kinh nghiệm, không biết việc được phép hay không được phép. Các tỳ khưu ni ít
ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư tế độ đã tiếp độ
cho trong hai năm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hầu cận ni sư tế
độ đã tiếp độ cho trong hai năm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại không hầu cận ni sư
tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem
lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các
tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào không hầu cận
ni sư tế độ đã tiếp độ cho trong hai năm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[396] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.
Ni sư tế độ nghĩa là vị ni là thầy tế độ được đề cập đến.
Hai năm: (thời hạn) hai năm.
Không hầu cận: không tự mình hầu cận. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ
không hầu cận trong hai năm;” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[397] Vị ni sư tế độ là vị ni ngu dốt hoặc không có liêm sỉ, vị
ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì
vô tội.
70. Điều học thứ mười (Sau khi
tiếp độ người nữ đệ tử lại không cách ly khiến chồng bắt lại)
[398] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā
sau khi tiếp độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho
(vị ni ấy) được cách ly. Người chồng đã giữ lại. Các tỳ khưu ni ít ham muốn,
...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi tiếp độ người nữ đệ tử lại
không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được cách ly khiến người
chồng đã giữ lại? Nếu vị tỳ khưu ni này đã ra đi thì người chồng không thể giữ
lại được.
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ
người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được
cách ly khiến người chồng đã giữ lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi tiếp độ
người nữ đệ tử lại không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được
cách ly khiến người chồng đã giữ lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không
đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu,
các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi tiếp
độ người nữ đệ tử rồi không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy) được
cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[399] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Đã tiếp độ cho: đã cho tu lên bậc trên.
Không cách ly: không tự mình cách ly.
Không làm cho (vị ni ấy) được cách ly: không chỉ thị cho vị khác.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không cách ly (vị ni ấy) cũng không làm cho (vị ni ấy)
được cách ly cho dầu chỉ là năm sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[400] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có
được vị tỳ khưu ni thứ hai, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi
phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết Phần 7. Sản Phụ
0 Comments