Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunivibhanga)
Chương 4. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 3. Lõa Thể
Mục Lục
21. Điều học thứ nhất (Lõa thể
tắm)
[220] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni tắm sông. Sự quy định
22. Điều học thứ nhì (Kích thước
y choàng tắm)
[223] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni nhóm Lục Sư. Sự quy định
23. Điều học thứ ba: (Tháo rời
y của tỳ-khưu ni rồi không may lại)
[227] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
24. Điều học thứ tư (Xa y quá
năm ngày)
[231] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
25. Điều học thứ năm (Mặc y
căn bản của vị khác không hỏi ý)
[235] Câu chuyện về hai vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
26. Điều học thứ sáu (Ngăn cản
lợi lộc về y của nhóm)
[239] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
27. Điều học thứ bảy (Ngăn cản
sự phân chia y đúng Pháp)
[242] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
28. Điều học thứ tám (Cho y của
sa-môn đến người tại gia và ngoại đạo)
[246] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
29. Điều học thứ chín (Để cho
vượt quá thời hạn về y)
[249] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
30. Điều học thứ mười (Ngăn cản
sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp)
[253] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Tuyên ngôn thâu hồi
Kaṭhina.
[254] Sự quy định
Nội Dung
21. Điều học thứ nhất (Lõa thể
tắm)
[220] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu ni lõa
thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi giòng sông Aciravatī. Các
cô gái điếm đã chế giễu các tỳ khưu ni ấy rằng:
- Các bà đại đức ơi, vì điều gì mà các bà thực hành Phạm hạnh
trong lúc đang còn trẻ vậy? Chớ không phải các dục lạc là nên được thỏa thích
hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế
các bà sẽ vơ được cả hai mối lợi.
Trong khi bị các cô gái điếm chế giễu, các tỳ khưu ni đã xấu hổ.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi về ni viện và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ
khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện
ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ
khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như
trên)... và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào lõa thể tắm thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị).”
[221] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Lõa thể tắm: vị ni không quấn y hoặc không choàng y rồi tắm.
Trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[222] Vị ni có y (choàng tắm) bị cướp đoạt, hoặc vị ni có y
(choàng tắm) bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
22. Điều học thứ nhì (Kích thước
y choàng tắm)
[223] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm của các
tỳ khưu ni đã được đức Thế Tôn cho phép. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư (nghĩ rằng):
“Vải choàng tắm đã được đức Thế Tôn cho phép” rồi đã mặc những vải choàng tắm
không đúng kích thước, trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi
đó đây. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm
không đúng kích thước?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mặc những
vải choàng tắm không đúng kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại mặc những
vải choàng tắm không đúng kích thước vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không
đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi cho thực hiện
vải choàng tắm, vị tỳ khưu ni nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước
này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện
Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm) nên được cắt bớt và phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[224] Vải choàng tắm nghĩa là vật mà vị ni quấn vào rồi tắm.
Trong khi cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo
làm. Nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang
tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. [1] Nếu vị (tự) làm hoặc
bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi
nên sám hối tội pācittiya (ưng đối trị).
[225] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị ni có được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[226] Vị ni làm theo kích thước, vị ni làm nhỏ hơn, do người khác
làm quá kích thước sau khi có được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị ni làm mái che
hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị ni bị
điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
23. Điều học thứ ba: (Tháo rời
y của tỳ-khưu ni rồi không may lại)
[227] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y bằng vải y đắt giá của
vị tỳ khưu ni nọ đã được làm xấu xí, đã được may vụng về. Tỳ khưu ni
Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, vải y này của cô tuyệt đẹp nhưng y đã được làm xấu
xí, đã được may vụng về.
- Này ni sư, tôi tháo rời ra, có phải cô sẽ may lại?
- Này ni sư, đúng vậy. Tôi sẽ may lại.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã tháo rời y ấy rồi đã trao cho tỳ khưu
ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Ta sẽ may lại, ta sẽ may lại”
nhưng không may lại, cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại. Sau
đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít
ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỳ khưu
ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo
tháo rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo
(người khác) may lại, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi bảo tháo
rời y của vị tỳ khưu ni rồi không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người
khác) may lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ
biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời
y của vị tỳ khưu ni, vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng
không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại, ngoại trừ trong bốn ngày hoặc
năm ngày thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[228] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỳ khưu ni: của vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
Khi đã tháo rời: sau khi tự mình tháo rời.
(Sau khi) bảo tháo rời: sau khi bảo người khác tháo rời.
Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.
Vẫn không may lại: không tự mình may lại.
Không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại: không chỉ thị
người khác.
Ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày: trừ ra trong bốn ngày hoặc
năm ngày.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ không may lại, ta sẽ không nỗ lực trong việc
bảo (người khác) may lại,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[229] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc
trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn
không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni ấy khi đã
tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng
không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên,
vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn
không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày.
Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời vật phụ tùng khác sau
đó không gặp trở ngại vẫn không may lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người
khác) may lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm
ngày.
Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y hoặc vật phụ tùng
khác của người nữ chưa tu lên bậc trên sau đó không gặp trở ngại vẫn không may
lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) may lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm
ngày.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[230] Trong khi có trở ngại, vị ni đã tầm cầu nhưng không có được
(thời gian), trong khi làm vị ni ấy vượt quá bốn ngày hoặc năm ngày, vị ni bị bệnh,
trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
24. Điều học thứ tư (Xa y quá
năm ngày)
[231] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sau khi
trao y tận tay của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và
thượng y. Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu ni đem
phơi nắng các y ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu
ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của các tỳ khưu ni
lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay
của các tỳ khưu ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni sau khi trao y tận tay của
các tỳ khưu ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các
tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như
trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị
tỳ khưu ni nào vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[232] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Vượt quá năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi): đến ngày thứ năm vị ni không quấn hoặc
không trùm hoặc không phơi nắng năm y, vị ni vượt quá ngày thứ năm thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).[2]
[233] Khi đã vượt quá năm ngày, nhận biết là đã vượt quá, phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya
(ưng đối trị).
Khi đã vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là chưa vượt quá, phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa vượt quá năm ngày, (lầm) tưởng là đã vượt quá, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa vượt quá năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi chưa vượt quá năm ngày, nhận biết là chưa vượt quá thì vô tội.
[234] Vào ngày thứ năm vị ni quấn hoặc trùm hoặc phơi nắng năm y,
vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
25. Điều học thứ năm (Mặc y
căn bản của vị khác không hỏi ý)
[235] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ
sau khi đi khất thực đã trải ra tấm y bị ẩm ướt rồi đi vào trong trú xá. Có vị
tỳ khưu ni khác đã choàng lên y ấy rồi đi vào làng để khất thực. Vị ni kia đi
ra đã hỏi các tỳ khưu ni rằng:
- Này các ni sư, các vị có nhìn thấy y của tôi không?
Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy,
vị tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu ni trùm y của tôi mà không hỏi ý?
Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà không hỏi ý?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni trùm y của vị tỳ khưu
ni mà không hỏi ý, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni trùm y của tỳ khưu ni mà
không hỏi ý vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sử dụng y căn bản (của vị ni khác) thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[236] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Y căn bản nghĩa là y nào đó trong năm y của người nữ đã tu lên bậc
trên. Vị ni quấn hoặc trùm y chưa được vị ni kia cho, hoặc chưa hỏi ý vị ni kia
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[237] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc
trên, vị ni sử dụng y căn bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sử dụng y căn
bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên,
vị ni sử dụng y căn bản (của vị ni kia) thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni sử dụng y căn bản của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[238] Vị ni kia cho, hoặc có hỏi ý vị ni kia rồi quấn hoặc trùm
lên, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố,
vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
26. Điều học thứ sáu (Ngăn cản
lợi lộc về y của nhóm)
[239] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ cho tỳ
khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã tạo chướng ngại (nói rằng):
- Các người có nhiều phận sự, có nhiều công việc cần phải làm.
Vào lúc bấy giờ, ngôi nhà của gia đình ấy bị cháy. Những người ấy
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā lại cản trở việc bố thí của chúng tôi
khiến chúng tôi bị xa lìa cả hai là tài sản và phước báu?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cản trở lợi lộc về y của nhóm?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cản trở lợi lộc
về y của nhóm, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cản trở lợi
lộc về y của nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy
phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cản trở lợi lộc về y của nhóm
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[240] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước)
tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Cản trở: vị cản trở (hỏi rằng): “Các người bố thí y này như thế
nào?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị cản trở vật phụ tùng khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị cản trở y hoặc vật phụ tùng khác của nhiều vị tỳ khưu ni hoặc
của một vị tỳ khưu ni hoặc của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[241] Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
27. Điều học thứ bảy (Ngăn cản
sự phân chia y đúng Pháp)
[242] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có y ngoài hạn kỳ phát
sanh đến hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni có ý định phân chia
y ấy nên tụ hội lại. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni
Thullanandā đang đi vắng. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni ấy
điều này:
- Này các ni sư, các tỳ khưu ni đang đi vắng, trong khi ấy y sẽ
không được chia.
Rồi đã ngăn cản sự phân
chia y. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Trong khi ấy y sẽ không được chia” nên đã
ra đi. Đến khi các tỳ khưu ni học trò trở về lại, tỳ khưu ni Thullanandā đã bảo
phân chia y ấy. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng pháp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự
phân chia y đúng pháp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự
phân chia y đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin
cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni
hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự phân chia y
đúng pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[243] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Sự phân chia y đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp
nhất tụ hội lại rồi phân chia.
Ngăn cản: vị ni ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể phân chia y này như
thế nào?” thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[244] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni
ngăn cản thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni ngăn cản
thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
[245] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
28. Điều học thứ tám (Cho y của
sa-môn đến người tại gia và ngoại đạo)
[246] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā
cho y của sa-môn đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo
thuật, các người đánh trống (bảo rằng):
- Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.
Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật,
các người đánh trống đã nói lời khen ngợi về tỳ khưu ni Thullanandā ở đám đông
rằng:
- Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc
lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Hãy bố thí đến ni sư. Hãy phục vụ
cho ni sư.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cho y của sa-môn đến người nam tại
gia?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho y của
sa-môn đến người nam tại gia, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho y của
sa-môn đến người nam tại gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cho y của sa-môn đến
người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[247] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Người nam tại gia nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn
nhà.
Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du
sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.
Nữ du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du
sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.
Y của sa-môn nghĩa là đề cập đến việc làm thành được phép đã được
thực hiện. Vị ni cho thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[248] Vị ni cho đến cha mẹ, vị ni cho mượn (trong thời hạn), vị
ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
29. Điều học thứ chín (Để cho
vượt quá thời hạn về y)
[249] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỳ
khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Thưa ni sư, nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y đến
hội chúng tỳ khưu ni.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trải qua mùa (an cư) mưa có ý định
phân chia y nên đã tụ họp lại. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các tỳ khưu ni
ấy điều này:
- Này các ni sư, hãy chờ đợi. Có niềm hy vọng về y cho hội chúng
tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni Thullanandā điều này:
- Này ni sư, hãy đi và tìm hiểu về y ấy.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi đến gặp gia đình ấy, sau khi đến đã
nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng tỳ khưu ni.
- Thưa ni sư, chúng tôi không thể dâng y đến hội chúng tỳ khưu
ni.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại để cho vượt quá thời hạn về y khi
niềm hy vọng về y không chắc chắn?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā để cho vượt
quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại để cho vượt
quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn vậy? Này các tỳ khưu, sự
việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và
này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu
ni nào để cho vượt quá thời hạn về y khi niềm hy vọng về y không chắc chắn thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[250] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Niềm hy vọng về y không chắc chắn nghĩa là lời nói đã được phát
ra rằng: “Nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y.”
Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối
cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.
Để cho vượt quá thời hạn về y: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị ni để cho vượt
quá ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Khi Kaṭhina được thành tựu, vị ni để cho vượt quá
ngày Kaṭhina hết hiệu lực thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị).
[251] Khi y không chắc chắn, nhận biết là y không chắc chắn,[3] vị
ni để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi y không chắc chắn, có sự hoài nghi, vị ni để cho vượt quá thời
hạn về y thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y không chắc chắn, (lầm) tưởng là được chắc chắn, vị ni để
cho vượt quá thời hạn về y thì vô tội.
Khi y được chắc chắn, (lầm) tưởng là không chắc chắn, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Khi y được chắc chắn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi y được chắc chắn, nhận biết là được chắc chắn thì vô tội.
[252] Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
30. Điều học thứ mười (Ngăn cản
sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp)
[253] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có ngôi trú xá dành
cho hội chúng đã được nam cư sĩ nọ cho xây dựng. Vào dịp lễ của ngôi trú xá ấy,
người ấy có ý định dâng y ngoài hạn kỳ đến cả hai hội chúng. Vào lúc bấy giờ,
kaṭhina của cả hai hội chúng đã được thành tựu.
Khi ấy, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi
đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thâu hồi Kaṭhina. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thâu hồi như vầy: Hội chúng cần
được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thâu hồi Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng thâu hồi
Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý với việc thâu hồi
Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể
nói lên.
Kaṭhina đã được hội chúng thâu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý
nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[254] Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và
cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Sẽ có y cho chúng ta”
nên đã ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại không cho sự thâu hồi Kaṭhina của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā ngăn cản sự
thâu hồi Kaṭhina
đúng pháp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại ngăn cản sự
thâu hồi Kaṭhina
đúng pháp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).”
[255] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là vị “tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Sự thâu hồi Kaṭhina đúng pháp nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni có sự hợp nhất tụ hội
lại rồi thâu hồi.
Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể thâu hồi Kaṭhina này như thế nào?” thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[256] Đúng pháp, nhận biết là đúng pháp, vị ni ngăn cản thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni ngăn cản thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Đúng pháp, (lầm) tưởng là sai pháp, vị ni ngăn cản thì vô tội.
Sai pháp, (lầm) tưởng là đúng pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sai pháp, nhận biết là sai pháp thì vô tội.
[257] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết Phần 3. Lõa Thể
0 Comments