Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunivibhanga)
Chương 4. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 4. Dùng Chung
Mục Lục
31. Điều học thứ nhất (Hai tỳ-khưu
ni nằm chung trên một chiếc giường )
[258] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
32. Điều học thứ nhì (Hai tỳ-khưu
ni nằm chung tấm trải tấm đắp)
[261] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
33. Điều học thứ ba: (Cố ý quấy
rầy vị tỳ-khưu ni)
[265] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
34. Điều học thứ tư (Không
chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau)
[269] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
35. Điều học thứ năm (Lôi kéo
vị tỳ-khưu ni ra khỏi nơi trú ngụ)
[272] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định
36. Điều học thứ sáu (Sống
thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ)
[276] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Caṇḍakālī. Sự quy định
[277] Giải nghĩa từ ngữ. Tuyên ngôn nhắc nhở.
37. Điều học thứ bảy (Đi du
hành trong quốc độ có sự nguy hiểm và kinh hoàng)
[283] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
38. Điều học thứ tám (Đi du
hành ngoài quốc độ (ở nơi) có sự nguy hiểm và kinh hoàng)
[286] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
39. Điều học thứ chín (Đi du
hành trong mùa (an cư) mưa)
[289] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu ni. Sự quy định
40. Điều học thứ mười (Sau mùa
an cư không ra đi du hành)
[292] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni ở thành Rājagaha. Sự quy định
Nội Dung
31. Điều học thứ nhất (Hai tỳ-khưu
ni nằm chung trên một chiếc giường )
[258] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hai
(người) nằm chung trên một chiếc giường. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các
trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc
giường, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc
giường?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung
trên một chiếc giường, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm
chung trên một chiếc giường vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỳ khưu ni nào hai (người) nằm chung
trên một chiếc giường thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[259] Các vị ni nào: là bất cứ các vị ni nào ...(như trên)...
Các tỳ khưu ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.
Hai (người) nằm chung trên một chiếc giường: khi một vị ni đang nằm
vị ni kia nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai cùng nằm
xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đứng dậy rồi cùng nằm xuống
lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[260] Khi một vị ni đang nằm thì vị ni kia ngồi, hoặc cả hai đều
ngồi, các vị ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
32. Điều học thứ nhì (Hai tỳ-khưu
ni nằm chung tấm trải tấm đắp)
[261] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hai
(người) nằm chung một tấm trải tấm đắp. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các
trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung một tấm trải tấm
đắp, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm chung một tấm trải tấm
đắp?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni hai (người) nằm chung
một tấm trải tấm đắp, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni hai (người) lại nằm
chung một tấm trải tấm đắp vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỳ khưu ni nào hai (người) nằm chung
một tấm trải tấm đắp thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[262] Các vị ni nào: là bất cứ các vị ni nào ...(như trên)...
Các tỳ khưu ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.
Hai (người) nằm chung một tấm trải tấm đắp: sau khi trải ra bằng
chính tấm ấy họ lại đắp bằng chính tấm ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[263] Chung một tấm trải tấm đắp, nhận biết là chung một tấm trải
tấm đắp, (hai vị ni) nằm chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung một tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, (hai vị ni) nằm
chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung một tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là khác tấm trải tấm đắp,
(hai vị ni) nằm chung thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chung tấm trải, khác tấm đắp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải, chung tấm đắp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là chung một tấm trải tấm đắp,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Khác tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khác tấm trải tấm đắp, nhận biết là khác tấm trải tấm đắp thì vô
tội.
[264] Sau khi chỉ rõ sự sắp xếp[4] rồi (cả hai) nằm xuống, các vị
ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
33. Điều học thứ ba: (Cố ý quấy
rầy vị tỳ-khưu ni)
[265] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā
là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp
thoại. Bhaddā Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự
tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng):
“Ni sư Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin,
rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā
Kāpilānī trước tiên sau đó mới thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā
có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ,
tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự
khuếch trương” rồi đi tới lui, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống, rồi
đọc tụng, rồi bảo đọc tụng, rồi học bài ở phía trước Bhaddā Kāpilānī.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cố ý quấy rầy ni sư Bhaddā
Kāpilānī?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cố ý quấy rầy
Bhaddā Kāpilānī, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cố ý quấy rầy
Bhaddā Kāpilānī vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cố ý quấy rầy vị tỳ khưu ni thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[263] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu ni: là vị tỳ khưu ni khác.
Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã
suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Quấy rầy: Vị ni (nghĩ rằng): “Do việc này sự không thoải mái sẽ
có cho người này ” không hỏi ý rồi đi tới lui, hoặc đứng lại, hoặc ngồi xuống,
hoặc nằm xuống, hoặc đọc tụng, hoặc bảo đọc tụng, hoặc học bài ở phía trước thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[267] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc
trên, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni cố ý quấy rầy
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên,
vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[268] Không có ý định quấy rầy, hỏi ý rồi đi tới lui hoặc đứng lại
hoặc ngồi xuống hoặc nằm xuống hoặc đọc tụng hoặc bảo đọc tụng hoặc học bài ở
phía trước, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
34. Điều học thứ tư (Không
chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau)
[269] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā
không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm
đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā không chăm sóc
người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại không chăm
sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc vậy? Này các
tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như
trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị
tỳ khưu ni nào không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm
người chăm sóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[270] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Bị ốm đau nghĩa là bị bệnh.
Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.
Không chăm sóc: không tự mình chăm sóc.
Không nỗ lực kiếm người chăm sóc: không chỉ thị người khác. (Nghĩ
rằng): “Ta sẽ không chăm sóc cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc,” trong việc
buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị không chăm sóc
người nữ học trò hoặc người nữ chưa tu lên bậc trên cũng không nỗ lực kiếm người
chăm sóc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[271] Trong khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm không có được (người
chăm sóc), vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
35. Điều học thứ năm (Lôi kéo
vị tỳ-khưu ni ra khỏi nơi trú ngụ)
[272] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Bhaddā Kāpilānī đã vào
mùa (an cư) mưa ở thành Sāketa. Vị ni ấy vì công việc cần làm nào đó đã phái
người đưa tin đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā (nhắn rằng):
- Nếu ni sư Thullanandā có thể cho tôi chỗ trú ngụ thì tôi có thể
đi đến Sāvatthi.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói như vầy:
- Hãy đi đến, tôi sẽ cho.
Sau đó, Bhaddā Kāpilānī đã từ thành Sāketa đi đến thành Sāvatthi.
Tỳ khưu ni Thullanandā đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ.
Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều,
chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Bhaddā
Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ
về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng): “Ni sư
Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ
về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā Kāpilānī
trước tiên sau đó mới thăm viếng tỳ khưu ni Thullanandā. Tỳ khưu ni Thullanandā
có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ,
tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự
khuếch trương” rồi nổi giận bất bình đã lôi kéo Bhaddā Kāpilānī ra khỏi chỗ trú
ngụ. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã cho ni sư Bhaddā Kāpilānī
chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã cho
Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đã cho
Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra vậy? Này các tỳ
khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như
trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị
tỳ khưu ni nào sau khi đã cho chỗ trú ngụ đến vị tỳ khưu ni lại nổi giận bất
bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[273] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Đến vị tỳ khưu ni: đến vị tỳ khưu ni khác.
Chỗ trú ngụ nghĩa là chỗ có gắn liền cánh cửa được đề cập đến.
Sau khi đã cho: sau khi tự
mình cho.
Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi
lòng cay cú.
Lôi kéo ra: Sau khi nắm lấy ở trong phòng rồi lôi kéo ra phía trước
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi lôi kéo
ra bên ngoài thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Với một lần ra sức, mặc dầu
làm cho (vị ni kia) vượt qua nhiều cánh cửa (vị ni ấy) phạm (chỉ một) tội
pācittiya (ưng đối trị).
Bảo lôi kéo ra: vị ni ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu
làm cho (vị ni kia) vượt qua nhiều cánh cửa (vị ni ra lệnh) phạm (chỉ một) tội
pācittiya (ưng đối trị).
[274] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc
trên, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc
bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sau khi đã
cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên,
vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo
lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia thì
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra khỏi chỗ không có gắn liền
cánh cửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị
ni kia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra người nữ chưa tu lên bậc
trên khỏi chỗ có gắn liền cánh cửa hoặc chỗ không có gắn liền cánh cửa thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của cô kia thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[275] Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni không biết hổ thẹn,
vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni kia; vị ni lôi kéo ra
hoặc bảo lôi kéo ra vị ni bị điên, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng
của vị ni kia; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni thường gây nên các sự
xung đột, ... vị ni thường gây nên sự cãi cọ, ... vị ni thường gây nên sự tranh
luận, ... vị ni thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, ... vị ni thường gây nên
sự tranh tụng trong hội chúng, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của
vị ni kia; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra người nữ đệ tử hoặc người nữ học
trò không thực hành phận sự đúng đắn, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật
dụng của vị ni kia; vị ni bị điên; vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
36. Điều học thứ sáu (Sống
thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ)
[276] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con
trai gia chủ. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con
trai gia chủ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với
con trai gia chủ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy
phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sống thân cận với nam gia chủ
hoặc với con trai gia chủ, vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như
sau: ‘Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này
ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu
ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ
khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ
ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[277] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Sống thân cận: sống thân cận với (hành động thuộc về) thân và khẩu
không đúng đắn.
Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.
Con trai của gia chủ nghĩa là bất cứ những người nào là con trai
hoặc anh em trai.
[278] Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni sống thân cận.
Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy,
các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận
với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen
ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu
(vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì
phạm tội dukkaṭa (tác
ác). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác)
Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói
rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ.
Này ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được
nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị
ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[279] Vị tỳ khưu ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên
được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh
nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni
này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy
không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội
chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề
nghị.
Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni
này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy
không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt
bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để
dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự
việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.”
[280] Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do hai lời thông báo của hành sự
thì phạm các tội dukkaṭa (tác ác). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[281] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị ni
không dứt bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị ni không dứt
bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[282] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị
ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
37. Điều học thứ bảy (Đi du
hành trong quốc độ có sự nguy hiểm và kinh hoàng)
[283] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đi du
hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm,
có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm ô uế. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như
trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở
trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành không cùng
với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không
cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh
hoàng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành không cùng với đoàn xe ở
trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).”
[284] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Ở trong quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người nào
tức là trong quốc độ của người ấy.
Có sự nguy hiểm nghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn
cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm
được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết
bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Không cùng với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi
làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
theo từng khoảng cách nửa yojana.[5]
[285] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn
không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
38. Điều học thứ tám (Đi du
hành ngoài quốc độ (ở nơi) có sự nguy hiểm và kinh hoàng)
[286] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đi du
hành không cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự
nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm ô uế. Các tỳ khưu ni ít ham muốn,
...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở
bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành không cùng
với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự
kinh hoàng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành không
cùng với đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm
có sự kinh hoàng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy
phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành không cùng với
đoàn xe ở bên ngoài quốc độ (tại nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự
kinh hoàng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[287] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Bên ngoài quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người
nào thì trừ ra khu vực ấy, ở trong quốc độ của người khác.
Có sự nguy hiểm nghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn
cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm
được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết
bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Không cùng với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi
làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
theo từng khoảng cách nửa yojana.
[288] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn
không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
39. Điều học thứ chín (Đi du
hành trong mùa (an cư) mưa)
[289] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy
giờ, các tỳ khưu ni đi du hành trong mùa (an cư) mưa. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa?
Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ
có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ
nhoi.
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đi du hành trong mùa
(an cư) mưa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đi du hành trong mùa
(an cư) mưa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi du hành trong mùa (an cư) mưa thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[290] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Trong mùa (an cư) mưa: sau khi đã không sống (an cư mùa mưa) ba
tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi
làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
theo từng khoảng cách nửa yojana.
[285] Vị ni đi vì công việc cần làm trong bảy ngày, vị ni đi khi
bị quấy rối bởi điều gì đó, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi
phạm đầu tiên thì vô tội.
40. Điều học thứ mười (Sau mùa
an cư không ra đi du hành)
[292] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy
giờ, các tỳ khưu ni sống mùa mưa ở ngay tại nơi ấy trong thành Rājagaha, mùa lạnh
tại nơi ấy, mùa nóng tại nơi ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các hướng đi của các tỳ khưu ni bị tắt nghẽn, tăm tối. Các hướng
đi không còn được các vị ni này nhận ra nữa.
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy
nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ
khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như
trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ
khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni khi trải
qua mùa (an cư) mưa mà không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc sáu do tuần thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[293] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề
cập trong ý nghĩa này.
Khi trải qua mùa (an cư) mưa nghĩa là đã trải qua (mùa an cư mưa)
ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.
Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc
sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).
[294] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có
được vị tỳ khưu ni thứ hai, vị ni bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu
tiên thì vô tội.
Phần Dùng Chung là phần thứ tư.
[1] Nếu tính gang tay của đức
Thiện Thệ theo kích thước của người bình thường là 0,25 cm thì kích thước vải
choàng tắm của tỳ khưu ni là 1 m x 0,5 m. Vải choảng tắm mưa của các tỳ khưu lớn
hơn: 1,50 m x 0, 625 m.
[2] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng cứ mỗi y là tính một tội pācittiya.
[3] “dubbalacīvare dubbalacīvarasaññā
...” nên hiểu là: “Khi (niềm hy vọng về) y không chắc chắn, nhận biết là (niềm
hy vọng về) y không chắc chắn ...”
[4] Ngài Buddhaghosa giảng rằng:
“Các vị ni sau khi đã đặt ở giữa tấm y ca-sa, hoặc cây gậy chống, hoặc chỉ là sợi
dây lưng rồi nằm xuống thì không phạm tội.”
[5] Tài liệu The Buddhist
Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
Xem Phần 5. Nhà Triển Lãm Tranh
0 Comments