Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 7. KAṬHINA - Tụng Phẩm 1

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 7. Kahina (Kahinakkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ nhất

Mục Lục

[95] Câu chuyện về ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā

[96] Sự cho phép Kahina. Năm điều cho phép

[97] Hai mươi bốn điều Kahina không thành tựu

[98] Mười lăm điều Kahina được thành tựu

[99] Tám điều hết hiệu lực của Kahina

[100] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina

Nội Dung

[95] Câu chuyện về ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā

 [95] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā: tất cả đều là các vị chuyên ngụ ở rừng, tất cả đều là các vị chuyên đi khất thực, tất cả đều là các vị mặc y may từ vải dơ bị quăng bỏ, tất cả đều là các vị chỉ sử dụng ba y. Trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên các vị không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Các vị đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Các vị đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Sau đó, khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraā (Tự Tứ), trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, các vị tỳ khưu ấy với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Điều này đã trở thành thông lệ đối với chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái, có sự đoàn kết, thân thiện, không cãi cọ nhau không? Và các ngươi có không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực không?

- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con đã sống qua mùa (an cư) mưa có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực. Bạch ngài, trường hợp chúng con là nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Chúng con đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Bạch ngài, chúng con đây đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Bạch ngài, sau khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraā, trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, chúng con với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đường xa đến.

[96] Sự cho phép Kahina. Năm điều cho phép

 [96] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thành tựu Kahina cho các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa. Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kahina đã được thành tựu, năm điều này sẽ trở thành được phép (đối với các ngươi): việc ra đi không phải báo (anāmantacāro), việc ra đi không mang theo (đủ cả ba y) (asamādānacāro), sự thọ thực thành nhóm (gaabhojana), (sử dụng được nhiều) y theo như nhu cầu (yāvadatthacīvara), sự phát sanh về y tại nơi ấy sẽ là của các vị ấy (yo ca tattha cīvaruppādo so nesa bhavissati). Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kahina đã được thành tựu, năm điều này sẽ được phép đối với các ngươi. Và này các tỳ khưu, Kahina nên được thành tựu như vầy:

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kahina này đã được phát sanh đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên trao vải Kahina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kahina. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kahina này đã được phát sanh đến hội chúng. Hội chúng trao vải Kahina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kahina. Đại đức nào đồng ý việc trao vải Kahina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kahina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vải Kahina này đã được hội chúng trao đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kahina. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Này các tỳ khưu, Kahina đã được thành tựu như vầy, không được thành tựu như vầy.

[97] Hai mươi bốn điều Kahina không thành tựu

 [97] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kahina không được thành tựu? [1]

Kahina không được thành tựu ở giai đoạn đánh dấu về chiều dài, chiều rộng (ullikhitamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn giặt (dhovanamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn tính toán về y năm điều, hoặc bảy điều, hoặc chín điều, v.v... (cīvaravicāraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn cắt theo sự đã tính toán (chedanamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn kết chỉ tạm (bandhanamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn may lại theo đường chỉ lược cho chắc (ovaṭṭikakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn gắn miếng vải làm dấu (kaṇḍasakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn may chắc chắn (dahīkammakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn may đường viền (anuvātakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn kết lại phần giữa (paribhandakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn đắp thêm một lớp nữa (ovaṭṭeyyakaraamattena). Kahina không được thành tựu ở giai đoạn nhuộm (kambalamaddanamattena). Kahina không được thành tựu do sự ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (nimittakatena). Kahina không được thành tựu do sự giảng giải về Kahina rồi kêu gọi (parikathākatena). Kahina không được thành tựu với sự làm y có tính cách tạm thời (kukkukatena). Kahina không được thành tựu với sự tích trữ (sannidhikatena). Kahina không được thành tựu do sự hủy bỏ vì để qua đêm (nissagiyena). Kahina không được thành tựu với sự không làm thành được phép tức là không làm dấu hoại y (akappakatena). Kahina không được thành tựu với y không phải là y saghāi tức là y hai lớp. Kahina không được thành tựu với y không phải là thượng y, thường gọi là y vai trái (uttarasagena). Kahina không được thành tựu với y không phải là y nội (antaravāsakena). Kahina không được thành tựu với y không phải là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, không được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kahina không được thành tựu trừ phi do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kahina đã được thành tựu đúng đắn nhưng vị tùy h việc ấy đứng ngoài ranh giới (sīmā), như vậy Kahina vẫn không được thành tựu.

Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kahina không được thành tựu.

[98] Mười lăm điều Kahina được thành tựu

 [98] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kahina đã được thành tựu?

Kahina được thành tựu với (vải) mới.[2] Kahina được thành tựu với (vải) được xem như mới (ahatakappena). Kahina được thành tựu với vải áo choàng cũ (pilotikāya). Kahina được thành tựu với vải dơ bị quăng bỏ (pasukūlena). Kahina được thành tựu với vải đã được bỏ ở trước cửa tiệm, có người nhặt lấy rồi đem dâng (pāpaikena). Kahina được thành tựu với sự không ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (animittakatena). Kahina được thành tựu không do sự giảng giải về Kahina rồi kêu gọi (aparikathākatena). Kahina được thành tựu với sự làm không phải là tạm thời (akukkukatena). Kahina được thành tựu với với sự không tích trữ (asannidhikatena). Kahina được thành tựu do không để qua đêm (anissaggiyena). Kahina được thành tựu với với sự làm thành được phép tức là làm dấu hoại y (kappakatena). Kahina được thành tựu với y saghāi tức là y hai lớp. Kahina được thành tựu với thượng y thường gọi là y vai trái (uttarāsagena). Kahina được thành tựu với y nội (antaravāsakena). Kahina được thành tựu với y là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kahina được thành tựu do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kahina đã được thành tựu đúng đắn và vị tùy h việc ấy đứng trong ranh giới (sīmā), như vậy Kahina được thành tựu.

Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kahina được thành tựu.

[99] Tám điều hết hiệu lực của Kahina

[99] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kahina hết hiệu lực (ubbhata)?

Này các tỳ khưu, đây là tám điều tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kahina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc.[3] 

[100] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina

 [100] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy (ādāya) y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới (sīmā) thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.”[4] Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết 7 trường hợp cầm lấy

[101] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo (samādāya)[5] y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về,” và chờ đời sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết Phần 2 Bảy trường hợp mang theo

[102] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết Phần 3 Sáu trường hợp cầm lấy

[103] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết Phần 4 Sáu trường hợp mang theo

[104] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[105] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[106] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[107] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

[108] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. (Tương tợ như ở trường hợp “cầm lấy,” nên được giải thích đầy đủ như thế).

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được hoàn tất), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy. (Tương tợ như ở trường hợp “mang theo,” nên được giải thích đầy đủ như thế).

[109] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[110] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[111] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[112] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết Tụng phẩm 1 “Cầm Lấy”

Xem Tụng Phẩm 2 - Quay Về Mục Lục Chương 7

Xem Chương 8 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments