Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 7. KAṬHINA - Tụng Phẩm 2

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 7. Kahina (Kahinakkhandhaka)

2. Tụng phẩm thứ nhì

Mục Lục

[113] Tiếp tục giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina

[122] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina bằng các câu chuyện

[126] Hai điều vướng bận và không vướng bận của Kahina

Nội Dung

[113] Tiếp tục giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina

[113] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[114] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[115] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Hết 12 trường hợp không như ý mong mỏi

[116] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[117] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[118] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kahina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết 12 trường hợp như ý mong mỏi

[119] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[120] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[121] Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kahina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Hết 12 trường hợp có công việc cần làm

[122] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kahina bằng các câu chuyện

 [122] Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài. Ngài sẽ đi đâu vậy?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[123] Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

[124] Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Khi đã đi đến trú xứ kia, vị ấy đã khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Hết 9 trường hợp không mang theo

[125] Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kahina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kahina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kahina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kahina đã đến. Sự hết hiệu lực Kahina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Hết 5 trường hợp trú xá với sự an lạc

[126] Hai điều vướng bận và không vướng bận của Kahina

[126] Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận (palibodha), hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kahina.

Và này các tỳ khưu, hai điều vướng bận của Kahina là gì?

- Sự vướng bận về trú xứ và sự vướng bận về y.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về trú xứ?

- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu cư ngụ tại trú xứ nọ khởi lên ước muốn rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về trú xứ.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về y?

- Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu chưa được làm, hoặc là chưa được hoàn tất, hoặc là niềm mong mỏi về y chưa bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về y.

Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận của Kahina.

Và này các tỳ khưu, hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kahina là gì?

- Sự không vướng bận về trú xứ và sự không vướng bận về y.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về trú xứ?

- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ra đi từ trú xứ ấy với sự buông bỏ, với sự từ bỏ, với sự dứt bỏ, với sự không quan tâm (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về trú xứ.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về y?

- Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc bị mất, hoặc bị hư hỏng, hoặc bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về y.

Này các tỳ khưu, đây là hai điều không vướng bận của Kahina.

Hết Chương 7 Kahina

Trong chương này có mười hai sự việc và một trăm mười tám vấn đề được lặp lại.

Tóm lược chương này:

[127]

Ba mươi vị tỳ khưu

người ở xứ Pāvā

với tâm chẳng hài lòng

trú ở Sāketa.

Qua mùa an cư mưa,

các vị đã ra đi

diện kiến bậc Chiến Thắng

với (y) thấm đầy nước.

Đây chuyện Kahina

và năm điều được phép:

không báo, không mang theo,

cũng thế ăn thành nhóm,

và giữ y tùy thích,

y phát sanh sẽ có

cho các vị thành tựu.

Lời đề nghị như thế,

và cũng thế thành tựu,

không thành tựu cũng thế:

được đánh dấu, và giặt,

tính toán, và việc cắt,

kết chỉ tạm, may thêm,

gắn miếng vải làm dấu,

may chắc chắn, may viền,

phần giữa, đắp lớp nữa,

nhuộm, dấu hiệu, lời giảng,

tạm thời, việc trì hoãn,

hủy bỏ, chưa được phép,

ngoại trừ ba y ấy,

ngoại trừ y năm điều,

hoặc nhiều điều hơn nữa,

được cắt rồi kết lại,

không ngoại trừ cá nhân

là được làm đúng đắn,

tùy h đứng ngoài ranh

Kahina không thành,

như thế đức Phật thuyết.

Không dơ, như không dơ,

choàng cũ, đồ quăng bỏ,

vải rơi nơi cửa tiệm,

không ra hiệu, thuyết giảng,

không tạm thời, không hoãn,

không hủy, dấu đã làm,

cũng thế là ba y,

năm điều hoặc hơn thế,

đã cắt, được kết lại,

thành tựu bởi cá nhân,

là việc làm đúng đắn,

tùy h trong ranh giới,

như thế là thành tựu

của việc Kahina.

Sự thu hồi tám điều:

sự ra đi, hoàn tất,

tự quyết định, mất đi,

nghe được, hết mong mỏi,

ranh giới, sự thu hồi

đồng lúc là thứ tám.

Cầm lấy y đã làm,

vị đi “không trở lại,”

Kahina vị ấy

là đã được thu hồi

trong trường hợp ra đi.

Cầm lấy y chưa làm,

ra đi khỏi ranh giới,

vị ấy đã nghĩ rằng:

“Nơi đây ta sẽ làm

và không quay trở lại,”

trong khi được hoàn tất,

thu hồi Kahina.

Cầm lấy, khỏi ranh giới,

vị ấy không nghĩ rằng:

“Ta không quay trở về;”

việc Kahina ấy

của vị ấy thu hồi

là trong khi quyết định.

Cầm lấy y ra đi

khỏi ranh giới đã nghĩ:

“Nơi đây, ta sẽ làm

và không quay về nữa,”

trong khi làm bị mất;

việc Kahina ấy

của vị ấy thu hồi

là trong trường hợp mất.

Cầm lấy rồi ra đi,

“Ta sẽ quay trở về,”

ở ngoài nhờ làm y,

y đã làm nghe được,

Kahina nơi kia

đã được cho thu hồi;

việc Kahina ấy

của vị ấy thu hồi

là trong trường hợp nghe.

Cầm lấy rồi ra đi,

“Ta sẽ quay trở về,”

ở ngoài nhờ làm y,

y đã được làm xong,

ở bên ngoài chờ đợi

thu hồi Kahina;

việc Kahina ấy

của vị ấy thu hồi

là do vượt qua ranh.

Cầm lấy rồi ra đi,

“Ta sẽ quay trở về,”

ở ngoài nhờ làm y,

y đã được làm xong,

“Ta sẽ quay trở về,”

đã đến thời của việc

thu hồi Kahina;

việc Kahina ấy

của vị ấy thu hồi

sanh lên đồng một lượt

với các vị tỳ khưu.

Cầm lấy và mang theo,

có bảy, bảy phương thức,

những trường hợp ra đi,

không có trong nhóm sáu

đường lối chưa hoàn tất.

Cầm lấy đi khỏi ranh,

khởi ý “Sẽ nhờ làm”

làm xong, tự quyết định

bị mất, ba điều này.

Cầm lấy, “Ta không về,

ta làm ngoài ranh giới,”

làm xong, tự quyết định,

bị mất, ba điều này.

Khi không được dứt khoát,

cũng không cho vị ấy,

ba phương thức bên dưới.

Cầm lấy và ra đi

“Ta sẽ quay trở về,

ta làm ngoài ranh giới,”

“Ta sẽ không quay về”

vị nhờ làm hoàn tất,

thu hồi Kahina.

Tự quyết định, bị mất,

nghe được, vượt qua ranh,

được sanh khởi đồng thời

với các vị tỳ khưu,

như vầy mười lăm cách.

Mang theo, chưa hoàn tất,

mang theo như thế nữa,

bốn trường hợp này đây

toàn bộ mười lăm cách.

Không theo sự ước mốn,

và như sự mong mỏi,

có công việc cần làm,

ba điều ấy, nên hiểu

việc ấy từ phương thức

ba, mười hai, mười hai,

không thu gom, an lạc,

năm đường lối, nơi đây,              

vướng bận, không vướng bận,

sự tóm tắt được làm

từ điều đã hướng dẫn.

[1] Hai phần [97] và [98] được dịch theo nghĩa dựa vào lời giải thích của ngài Buddhaghosa.

[2] Dịch sát nghĩa là vải chưa bị dơ, chưa bị hư hoại (ahatena). Câu kế là: được xem như là không bị dơ, ngài Buddhaghosa giải thích là đã được giặt hai hoặc ba lần.

[3] Các phần kế tiếp chỉ để giải thích tám điều này. Nên đọc kỹ [126] nói về hai điều vướng bận (palibodha) để nắm được ý nghĩa của các phần kế tiếp từ đây trở đi. Một cách tổng quát, nếu còn được một trong hai điều vướng bận thì Kahina vẫn còn hiệu lực.

[4] Vấn đề thâu hồi Kahina được ghi lại ở Phân Tích Giới Bổn Tỳ Khưu Ni - Bhikkhunīvibhaga (điều pācittiya 30, [253]).

[5] Phần [100] và [101] chỉ khác nhau ở chỗ bất biến động từ “ādāya” và “samādāya” là “cầm lấy” và “tự mình cầm lấy,” chúng tôi tạm dùng từ “mang theo” cho trường hợp sau, và không nhận ra tầm quan trọng trong sự việc được nhấn mạnh ở đây.

Hết Chương 7 - Quay Về Mục Lục Chương 7

Xem Chương 8 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments