Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 1. Trọng Yếu (MahākhandhakaṂ)
9. Tụng phẩm thứ chín
Mục Lục
[118] Việc xuất gia sa di của Rāhula. Được phép của cha mẹ cho xuất
gia
[119] Cho phép vị có khả năng để cho nhiều sa di phục vụ
[120] Mười điều học của sa di
[121] Câu chuyện về hành phạt của các sa di
[124] Mười điều trục xuất sa di
[125] Chuyện về các hạng người không được tu lên bậc trên: Kẻ vô
căn. Kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu). Kẻ bỏ theo ngoại đạo. Loài thú. Kẻ giết mẹ. Kẻ
giết cha. Kẻ giết A-la-hán. Kẻ làm nhơ tỳ khưu ni. Kẻ chia rẽ hội chúng. Kẻ làm
chảy máu đức Phật. Kẻ lưỡng căn
[133] Các trường hợp không được làm thầy tế độ cho tu lên bậc trên
[134] Y và bình bát của vị tu lên bậc trên
[135] Ba mươi hai trường hợp không nên cho xuất gia
Nội Dung
[118] Việc xuất gia sa di của
Rāhula. Được phép của cha mẹ cho xuất gia
[118] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá) theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Kapilavatthu. Tại nơi đó giữa dân chúng dòng Sākya (Thích Ca), đức Thế Tôn ngự ở thành Kapilavatthu, tại tu viện Nigrodha.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư
dinh của Suddhodana[4] dòng Sākya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được
sắp đặt sẵn. Khi ấy, hoàng hậu mẹ của Rāhula (La Hầu La) đã nói với hoàng tử
Rāhula điều này:
- Này Rāhula, người kia là cha của con. Hãy đi và cầu xin người ấy
phần thừa kế.
Khi ấy, hoàng tử Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã
đứng ở phía trước đức Thế Tôn (nói rằng):
- Này vị sa-môn, bóng che của ngài thật an lạc.
Sau đó, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Khi ấy,
hoàng tử Rāhula đã theo sát phía sau của đức Thế Tôn (nói rằng):
- Này vị sa-môn, hãy ban cho con phần thừa kế. Này vị sa-môn, hãy
ban cho con phần thừa kế.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Sārīputta rằng:
- Này Sārīputta, như thế thì ngươi hãy cho hoàng tử Rāhula xuất
gia.
- Bạch ngài, con cho hoàng tử Rāhula xuất gia như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc xuất gia sa di bằng ba sự đi
đến nương nhờ (Tam Quy). Và này các tỳ khưu, nên cho xuất gia như vầy: Trước
tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu ca-sa, cho đắp thượng
y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp
tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy:”
“Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Khi ấy, đại đức Sārīputta đã cho hoàng tử Rāhula xuất gia.
Sau đó, Suddhodana dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi
đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên,
Suddhodana dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, trẫm cầu xin đức Thế Tôn một điều ước muốn.
- Này vị Gotama, các đấng Như Lai đã vượt khỏi các điều ước muốn.
- Bạch ngài, điều ấy là hợp lý, điều ấy không bị chê trách.
- Này vị Gotama, hãy nói điều ấy đi.
- Bạch ngài, trong khi đức Thế Tôn đã xuất gia, đau khổ đã khởi
lên ở trẫm không phải là ít. Tương tự như vậy trong việc Nandā,[5] (nhưng là sự
đau khổ) vô cùng mãnh liệt trong việc Rāhula. Bạch ngài, lòng thương yêu đối với
người con trai cắt vào da; sau khi để nó cắt vào da, nó cắt vào lớp da trong;
sau khi để nó cắt vào lớp da trong, nó cắt vào thịt; sau khi để nó cắt vào thịt,
nó cắt vào gân; sau khi để nó cắt vào gân, nó cắt vào xương; sau khi để nó cắt
vào xương, nó đạt đến tủy xương rồi trú (ở đó). Bạch ngài, tốt đẹp thay các
ngài đại đức không nên cho người con trai chưa được phép của cha mẹ xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho Suddhodana dòng Sākya bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được
đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài
Pháp thoại, Suddhodana dòng Sākya đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn,
hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên cho người con trai chưa được phép của
cha mẹ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích, đức
Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi (Xá Vệ). Trong khi tuần tự du
hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế
Tôn ngự ở Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
[119] Cho phép vị có khả năng
để cho nhiều sa di phục vụ
[119] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của đại đức Sārīputta đã gởi đứa trẻ trai đến đại đức Sārīputta (nói rằng): “Xin ngài trưởng lão hãy cho đứa trẻ này xuất gia.” Khi ấy, đại đức Sārīputta đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Một vị không nên để cho hai sa di phục vụ’ và ta đây đã có sa di Rāhula. Vậy ta nên thực hành như thế nào?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng
lực một mình được để cho hai sa di phục vụ, hoặc để cho nhiều (sa di) phục vụ với
số lượng mà vị ấy vẫn có đủ khả năng để giáo huấn và chỉ dạy.
[120] Mười điều học của sa di
[120] Sau đó, các vị sa di đã khởi ý điều này: “Chúng ta có bao nhiêu điều học? Vá chúng ta nên được học tập trong vấn đề gì?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học đến các sa di và
(cho phép) các sa di học tập trong các điều học ấy: Việc tránh xa sự giết hại mạng
sống, việc tránh xa sự lấy vật không được cho, việc tránh xa điều phi Phạm hạnh
(sự hành dâm), việc tránh xa sự nói dối, việc tránh xa trường hợp dễ duôi uống
chất say là rượu và chất lên men, việc tránh xa sự ăn phi thời, việc tránh xa sự
múa hát đờn và xem trình diễn, việc tránh xa trường hợp sử dụng vòng hoa vật
thơm và tô điểm bằng đồ trang sức, việc tránh xa chỗ nằm ngồi cao và rộng lớn,
việc tránh xa sự thọ lãnh vàng bạc. Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học
này đến các sa di và (cho phép) các sa di học tập trong các điều học này.
[121] Câu chuyện về hành phạt
của các sa di
[121] Vào lúc bấy giờ, các sa di sống không tôn kính, không vâng lời, không cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa di lại sống không tôn kính, không vâng lời, không
cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị sa
di hội đủ năm điều kiện: Là vị ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc,
ra sức làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, ra sức làm cho các tỳ khưu
không có chỗ ngụ, mắng nhiếc gièm pha các tỳ khưu, chia rẽ các tỳ khưu (này) với
các tỳ khưu (khác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hành phạt đối với vị
sa di hội đủ năm điều kiện này.
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực
hiện?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện sự ngăn cấm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm đối với các
sa di trong toàn bộ khu vực tu viện của hội chúng. Các sa di trong khi không thể
đi vào tu viện nên bỏ đi, hoàn tục, chuyển sang ngoại đạo. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm trong toàn bộ
khu vực tu viện của hội chúng; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực
hiện sự ngăn cấm ở chỗ vị (sa di) sống hoặc ở chỗ vị (sa di) lui tới.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm thức ăn
theo đường miệng đối với các sa di. Dân chúng trong lúc làm nước cháo và bữa ăn
dâng hội chúng nói với các sa di như vầy:
- Này các ngài, hãy đến và húp cháo. Này các ngài, hãy đến và thọ
dụng bữa ăn.
Các vị sa di nói như vầy:
- Này các đạo hữu, không thể được. Các tỳ khưu đã thực hiện sự
ngăn cấm.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các đại đức lại thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường
miệng đối với các sa di?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo
đường miệng, vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hết câu chuyện về hành phạt
[122] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi các vị
thầy tế độ lại thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di. Các vị thầy tế độ tìm
kiếm (nghĩ rằng): “Vì sao các sa di của chúng ta lại không được nhìn thấy?” Các
tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thực hiện sự
ngăn cấm.
Các vị thầy tế độ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi chúng tôi lại thực hiện
sự ngăn cấm đối với các sa di của chúng tôi?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, chưa hỏi các vị thầy tế độ không nên thực hiện
sự ngăn cấm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[123] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã dụ dỗ các sa di
của các tỳ khưu trưởng lão khiến các vị trưởng lão bị mệt mỏi trong khi tự mình
lấy gỗ chà răng và nước súc miệng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên dụ dỗ tập thể của vị khác; vị nào dụ
dỗ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[124] Mười điều trục xuất sa
di
[124] Vào lúc bấy giờ, sa di tên Kan$ṭaka của đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni tên Kaṇṭakī. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị sa di lại thực hành điều sai trái có hình thức như thế?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất sa di hội đủ mười điều
kiện này: Là kẻ giết hại mạng sống, là kẻ lấy vật không được cho, là kẻ phi Phạm
hạnh (hành dâm), là kẻ nói dối, là kẻ uống chất say, là kẻ phỉ báng đức Phật,
phỉ báng đức Pháp, phỉ báng đức Tăng, là kẻ có tri kiến sai trái, là kẻ làm nhơ
nhớp tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất vị sa di hội đủ mười điều
kiện này.
[125] Chuyện về các hạng người
không được tu lên bậc trên: Kẻ vô căn. Kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu). Kẻ bỏ theo
ngoại đạo. Loài thú. Kẻ giết mẹ. Kẻ giết cha. Kẻ giết A-la-hán. Kẻ làm nhơ tỳ
khưu ni. Kẻ chia rẽ hội chúng. Kẻ làm chảy máu đức Phật. Kẻ lưỡng căn
[125] Vào lúc bấy giờ, có người vô căn (paṇḍaka)[6] nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đi đến gặp các vị tỳ khưu hãy còn trẻ rồi nói như vầy:
- Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị tỳ khưu đuổi đi:
- Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần
đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị tỳ khưu xua đuổi lại đi đến gặp các sa di
lớn con to xác rồi nói như vầy:
- Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị sa di đuổi đi:
- Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần
đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị sa di xua đuổi lại đi đến gặp những người
chăn voi, những người giữ ngựa rồi nói như vầy:
- Này các đạo hữu, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Những người chăn voi, những người giữ ngựa đã làm điều nhơ nhớp.
Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Những sa-môn Thích tử này là những kẻ vô căn, những người nào
trong bọn họ không phải là những kẻ vô căn thì những người ấy làm điều nhơ nhớp
với những kẻ vô căn. Như vậy, chính tất cả những người này không có Phạm hạnh.
Các tỳ khưu đã nghe được những người chăn voi những người giữ ngựa
phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ vô căn chưa được tu lên bậc trên thì không
nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[126] Vào lúc bấy giờ, có người con trai của gia đình cổ hủ bị
khánh tận nọ là người mảnh mai. Khi ấy, người con trai của gia đình cổ hủ bị
khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Ta là người mảnh mai, không đủ khả năng để đạt
đến tài sản chưa có hoặc làm tăng trưởng tài sản đã có, với phương kế gì để ta
có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi người con trai của gia đình cổ
hủ bị khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật
thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên
những cái giường kín gió, hay là ta nên tự mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ
râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa, đi đến tu viện, và chung sống với
các tỳ khưu?”
Sau đó, người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã tự
mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa,
đi đến tu viện, và đảnh lễ các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức, đại đức được bao nhiêu năm?
- Được bao nhiêu năm? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
- Này đại đức, ai là thầy tế độ của đại đức?
- Thầy tế độ? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
Các vị tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
- Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người đã xuất gia này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người con trai của
gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự
việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu)[7] chưa được tu
lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì
nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ đã chuyển sang ngoại đạo chưa được tu lên bậc
trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục
xuất.
[127] Vào lúc bấy giờ, có con rồng nọ lo ngại, xấu hổ, và chán
ghét với sự xuất thân là loài rồng. Sau đó, con rồng ấy đã khởi ý điều này: “Với
phương kế gì ta có thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể
thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng?” Khi ấy, con rồng ấy đã
khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp,
thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh,
có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có
thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể thành tựu bản thể
của loài người một cách nhanh chóng.” Sau đó, con rồng ấy với hình dáng của người
thanh niên đã đi đến gặp các vị tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các vị tỳ khưu
đã cho người ấy xuất gia, đã cho tu lên bậc trên.
Vào lúc bấy giờ, con rồng ấy cùng với vị tỳ khưu khác ngụ trong
trú xá ở chỗ giáp ranh. Khi ấy vào lúc hừng sáng của đêm, vị tỳ khưu ấy thức dậy
và đi kinh hành ở ngoài trời. Sau đó, trong khi vị tỳ khưu ấy đã đi ra ngoài
con rồng ấy hết lo âu nên đã chìm vào giấc ngủ. Toàn bộ trú xá đã bị tràn ngập
bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi vào trú xá” trong
lúc mở cánh cửa ra đã nhìn thấy toàn bộ trú xá bị tràn ngập bởi (thân của) con
rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa, sau khi nhìn thấy (trở nên) sợ
hãi và đã kêu thét lên. Các vị tỳ khưu đã chạy lại và nói với vị tỳ khưu ấy điều
này:
- Này đại đức, vì sao đại đức lại kêu thét lên vậy?
- Này các đại đức, toàn bộ trú xá này bị tràn ngập bởi (thân của)
con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Khi ấy, con rồng ấy sau khi thức giấc bởi tiếng động ấy đã ngồi
xuống trên chỗ ngồi của mình. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đệ, ngươi là ai vậy?
- Thưa các ngài, tôi là rồng.
- Này đệ, vì sao ngươi lại biến thành hình dạng như thế này?
Khi ấy, con rồng ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu. Các
vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy
nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và nói với con rồng ấy điều
này:
- Các ngươi là loài rồng không có được pháp tiến bộ trong Pháp và
Luật này. Này rồng, ngươi hãy đi đi. Và hãy tiến hành Uposatha[8] vào ngày mười
bốn, ngày mười lăm và ngày thứ tám của mỗi nửa tháng ở ngay nơi ấy, như thế
ngươi sẽ hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và sẽ thành tựu bản thể
của loài người một cách nhanh chóng.
Khi ấy, con rồng ấy (nghĩ rằng): “Nghe nói ta không có được pháp
tiến bộ trong Pháp và Luật này” (trở nên) đau khổ, rầu rĩ, và trong khi nước mắt
trào ra đã khóc rống lên, rồi bỏ đi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, đây là hai lý do đưa đến việc hiện ra bản thể
thật của loài rồng là khi thực hành việc lứa đôi với rồng cái và khi hết lo âu
rồi chìm vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, hai lý do này đưa đến việc hiện ra bản
thể thật của loài rồng. Này các tỳ khưu, loài thú chưa được tu lên bậc trên thì
không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[128] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng
sống của người mẹ. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc ấy.
Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể thực
hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi ý điều
này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự
bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp;
nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực hiện
sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp các
tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
- Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của
người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm
tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy
đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ giết mẹ chưa được tu lên bậc trên thì không
nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[129] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng
sống của người cha. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc
ấy. Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể
thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi
ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực
hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện
pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực
hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp
các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều
này:
- Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của
người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm
tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy
đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ giết cha chưa được tu lên bậc trên thì
không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[130] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa từ Sāketa
đến thành Sāvatthi. Giữa đường bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp bóc các vị
tỳ khưu, một số đã giết chết các vị tỳ khưu. Các binh lính của đức vua phát xuất
từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu thoát. Những
kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã bị đưa đi tử
hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy đang bị đưa đi
tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
- May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta
có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các
tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu kia là các vị A-la-hán. Này các
tỳ khưu, kẻ giết A-la-hán chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc
trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[131] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ni đi đường xa từ
Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường, bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp
bóc các tỳ khưu ni, một số đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni. Các binh lính của đức
vua phát xuất từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu
thoát. Những kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã
bị đưa đi tử hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy
đang bị đưa đi tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
- May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta
có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các
tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni chưa được tu lên bậc
trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục
xuất. Này các tỳ khưu, kẻ làm chia rẽ hội chúng chưa được tu lên bậc trên thì
không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
Này các tỳ khưu, kẻ làm chảy máu (đức Phật) chưa được tu lên bậc trên thì không
nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[132] Vào lúc bấy giờ, có người lưỡng căn (ubhatobyañjanako) nọ
đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy hành động (như người nam) rồi người
ấy làm cho (thân thể) hành động (như người nữ). Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, người lưỡng căn chưa được tu lên bậc trên thì
không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[133] Các trường hợp không được
làm thầy tế độ cho tu lên bậc trên
[133] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có
thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với hội chúng
là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với hội chúng là
thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với nhóm (hai
hoặc ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với nhóm (hai hoặc
ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn
là thầy tế độ. ...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ
khưu) là thầy tế độ. ...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang
ngoại đạo là thầy tế độ. ...(như trên)... cho tu lên bậc trên với loài thú là
thầy tế độ. ...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ.
...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ giết cha là thầy tế độ. ...(như
trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là thầy tế độ. ...(như
trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy tế độ.
...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ.
...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế
độ. ...(như trên)... cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn là
thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) là thầy
tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang ngoại đạo là thầy tế
độ. Không nên cho tu lên bậc trên với loài thú là thầy tế độ. Không nên cho tu
lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ
giết cha là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là
thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy
tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ.
Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế độ.
Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ; vị nào cho tu lên
bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[134] Y và bình bát của vị tu
lên bậc trên
[134] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có
bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không
có y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có
y; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không
có y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có y
và bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với bình bát
của người đã được yêu cầu (tức là với bình bát mượn tạm thời). Khi đã được tu
lên bậc trên, các vị trả lại bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân
chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với bình bát mượn;
vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y của người
đã được yêu cầu (tức là với y mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các
vị trả lại y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y mượn; vị
nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y và bình
bát của người đã được yêu cầu (tức là với y và bình bát mượn tạm thời). Khi đã
được tu lên bậc trên, các vị trả lại y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực
bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y và bình
bát mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hết hai mươi trường hợp về người
không nên cho tu lên bậc trên
[135] Ba mươi hai trường hợp
không nên cho xuất gia
[135] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho người bị đứt cánh tay
(hatthacchinnaṃ) xuất
gia. ...(như trên)... Các vị cho người bị đứt bàn chân (pādacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị đứt cánh tay và bàn chân (hatthapādacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị sứt tai (kaṇṇacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị sứt mũi (nāsacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người bị sứt tai và mũi
(kaṇṇanāsacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị đứt ngón tay (aṅgulicchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người bị đứt móng tay (aḷacchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị đứt gân chân (kaṇḍaracchinnaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người có bàn tay dính liền
giống cánh dơi (phaṇahatthakaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người gù lưng (khujjaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
lùn tịt (vāmanaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người có bướu cổ (galagaṇḍikaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị hành phạt đóng dấu (lakkhaṇāhataṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người bị hành phạt đánh bằng
roi (kasāhataṃ) xuất
gia. ...(như trên)... Các vị cho người bị cáo thị tầm nã (likhitakaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
phù chân voi (sīpadiṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người có bệnh trầm trọng
(pāparogiṃ) xuất
gia. ...(như trên)... Các vị cho người bôi nhọ tập thể (parisadūsakaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
chột mắt (kāṇaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
tứ chi bị co rút (kuṇiṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người què (khañjaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
bị liệt nửa thân (pakkhahataṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người đi khập khiễng
(chinniriyāpathaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người già yếu
(jarādubbalaṃ) xuất
gia. ...(như trên)... Các vị cho người mù (andhaṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
câm (mūgaṃ) xuất
gia. ...(như trên)... Các vị cho người điếc (badhiraṃ) xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người
mù và câm xuất gia. ...(như trên)... Các vị cho người mù và điếc xuất gia.
...(như trên)... Các vị cho người câm và điếc xuất gia. ...(như trên)... Các vị
cho người mù câm điếc xuất gia. ...(như trên)...
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho người bị đứt cánh tay xuất gia.
Không nên cho người bị đứt bàn chân xuất gia. Không nên cho người bị đứt cánh
tay và bàn chân xuất gia. Không nên cho người sứt tai xuất gia. Không nên cho
người bị sứt mũi xuất gia. Không nên cho người bị sứt tai và mũi xuất gia.
Không nên cho người bị đứt ngón tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt móng
tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt gân chân xuất gia. Không nên cho người
có bàn tay dính liền giống cánh dơi xuất gia. Không nên cho người gù lưng xuất
gia. Không nên cho người lùn tịt xuất gia. Không nên cho người có bướu cổ xuất
gia. Không nên cho người bị hành phạt đóng dấu xuất gia. Không nên cho người bị
hành phạt đánh bằng roi xuất gia. Không nên cho người bị cáo thị tầm nã xuất
gia. Không nên cho người phù chân voi xuất gia. Không nên cho người có bệnh trầm
trọng kinh niên xuất gia. Không nên cho người bôi nhọ tập thể xuất gia. Không
nên cho người chột mắt xuất gia. Không nên cho người tứ chi bị co rút xuất gia.
Không nên cho người què xuất gia. Không nên cho người bị liệt nửa thân xuất
gia. Không nên cho người đi khập khiễng xuất gia. Không nên cho người già yếu
xuất gia. Không nên cho người mù xuất gia. Không nên cho người câm xuất gia.
Không nên cho người điếc xuất gia. Không nên cho người mù và câm xuất gia.
Không nên cho người mù và điếc xuất gia. Không nên cho người câm và điếc xuất
gia. Không nên cho người mù câm điếc xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hết 32 trường hợp không nên cho xuất
gia
Hết tụng phẩm 9 Phần Thừa Kế
Xem Tụng Phẩm 10 - Quay Về Mục Lục Chương 1 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments