Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 1. Trọng Yếu (MahākhandhakaṂ)
7. Tụng phẩm thứ bảy
Mục Lục
[95] Giảng về sự đuổi đi học trò. Năm điều kiện của người học trò
[96] Quy định về thầy dạy học
[97] Các trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy tế độ và thầy dạy
học
[98] Mười sáu nhóm năm của phần "Nên ban phép tu lên bậc
trên"
[99] Mười sáu nhóm sáu của phần "Nên ban phép tu lên bậc
trên"
[100] Giảng về Parivāsa cho người trước đây là ngoại đạo
Nội Dung
[95] Giảng về sự đuổi đi học
trò. Năm điều kiện của người học trò
[95] Vào lúc bấy giờ, các người học trò không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, người học trò nên thực hành phận sự đúng đắn đối
với các vị thầy dạy học; vị nào không thực hành đúng đắn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
(Các người học trò) vẫn không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đuổi đi người (học trò) không thực
hành phận sự đúng đắn. Và này các tỳ khưu, nên đuổi đi như vầy: “Ta đuổi ngươi
đi,” hay là “Đừng có quay trở lại đây,” hay là “Hãy đem đi y bát của ngươi,”
hay là “Ta không giúp đở ngươi nữa.” (Nếu) vị (thầy dạy học) bày tỏ bằng thân,
bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người học trò đã bị đuổi
đi. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ
bằng thân và lời nói, thì người học trò không bị đuổi đi
Vào lúc bấy giờ, những người học trò bị đuổi đi không xin lỗi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xin lỗi.
Các người (học trò) vẫn không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, người (học trò) bị đuổi đi không nên không xin
lỗi; vị nào không xin lỗi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong khi được xin lỗi các vị thầy dạy học không
tha thứ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tha thứ.
Các vị (thầy dạy học) vẫn không tha thứ. Những người học trò bỏ
đi, (hoặc) hoàn tục, (hoặc) theo ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trong khi được xin lỗi không nên không tha thứ;
vị nào không tha thứ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị thầy dạy học đuổi đi những người (học
trò) thực hành phận sự đúng đắn, không đuổi đi những người (học trò) không thực
hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người (học trò) thực hành phận
sự đúng đắn; vị nào đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên không
đuổi đi người (học trò) không thực hành phận sự đúng đắn; vị nào không đuổi đi
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện:
Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức tin, không
có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện.
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều
kiện: Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có nhiều nể
nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, không
nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người học trò là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm
điều kiện: Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức
tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự
rèn luyện. Này các tỳ khưu, người học trò là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều
kiện này.
Này các tỳ khưu, người học trò là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ
năm điều kiện: Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có
nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ
khưu, người học trò là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi không
đuổi đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện:
Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức tin, không
có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện.
Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không
vượt qua quy định khi đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi đuổi
đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện:
Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có nhiều nể nang,
có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học
là vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người
học trò hội đủ năm điều kiện này.
[96] Quy định về thầy dạy học
[96] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương nhờ. (Các trường hợp) những thầy dạy học ngu dốt và các học trò thông thái được phát hiện, những thầy dạy học thiếu kinh nghiệm và các học trò có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy dạy học nghe ít và các học trò nghe nhiều được phát hiện, những thầy dạy học trí kém và các học trò trí tuệ được phát hiện. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng):
“Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương nhờ khiến (các trường
hợp) những thầy dạy học ngu dốt và các học trò thông thái được phát hiện, những
thầy dạy học thiếu kinh nghiệm và các học trò có kinh nghiệm được phát hiện, những
thầy dạy học nghe ít và các học trò nghe nhiều được phát hiện, những thầy dạy học
trí kém và các học trò trí tuệ được phát hiện?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh
nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương
nhờ khiến (các trường hợp) những thầy dạy học ngu dốt ...(như trên)... và các học
trò trí tuệ được phát hiện, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên ban
phép tu lên bậc trên; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị
tỳ khưu kinh nghiệm có năng lực với mười năm hoặc trên mười năm được ban cho sự
nương nhờ.
[97] Các trường hợp đình chỉ sự
nương nhờ ở thầy tế độ và thầy dạy học
[97] Vào lúc bấy giờ, khi các vị thầy tế độ bỏ đi, hoàn tục, từ trần, chuyển qua bên nhóm khác, các vị tỳ khưu không biết các trường hợp đình chỉ sự nương nhờ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, đây là năm trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở
thầy tế độ: Thầy tế độ rời đi, hoặc hoàn tục, hoặc từ trần, hoặc chuyển qua bên
nhóm khác, hoặc sự ra lệnh (đuổi đi) là thứ năm. Này các tỳ khưu, đây là năm
trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy tế độ.
Này các tỳ khưu, đây là sáu trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy
dạy học: Thầy dạy học rời đi, hoặc hoàn tục, hoặc từ trần, hoặc qua bên nhóm
khác, hoặc sự ra lệnh (đuổi đi) là thứ năm, hoặc đã được gặp lại thầy tế độ.
Này các tỳ khưu, đây là sáu trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy dạy học.
[98] Mười sáu nhóm năm của phần
"Nên ban phép tu lên bậc trên"
[98] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép
tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị thành tựu
vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu
vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho
nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị bản thân không thành tựu vô học giới uẩn và không giúp người
khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân không thành tựu vô học định uẩn và
không giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân không thành tựu vô học
tuệ uẩn và không giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân không thành
tựu vô học giải thoát uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn,
bản thân không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và không giúp người
khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ
năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ,
không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản
thân thành tựu vô học giới uẩn và giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản
thân thành tựu vô học định uẩn và giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản
thân thành tựu vô học tuệ uẩn và giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản
thân thành tựu vô học giải thoát uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải
thoát uẩn, bản thân thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và giúp người khác
đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm
điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di
phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê
sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ
năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ,
không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có đức
tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), có nỗ lực tinh tấn, có niệm
được thiết lập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên
ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục
vụ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới,[8] bị hư hỏng về hạnh kiểm
thuộc tăng thượng hạnh,[9] bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy,[10]
ít học hỏi (appassuto), trí kém (duppañño) . Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ
năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ,
không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị không
bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc
tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe
nhiều (bahussuto), có trí tuệ (paññāvā). Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm
điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di
phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử
hay học trò bị bệnh, (không có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên
giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (không có khả năng để) giải tỏa hoặc
nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh
khởi, không biết về sự phạm tội, không biết cách thoát khỏi tội. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả
năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (có khả
năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự
chán nản, (có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi
đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, biết về sự phạm tội, biết cách
thoát khỏi tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự
căn bản,[11] (không có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của
Phạm hạnh,[12] (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp (abhidhamma), (không
có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật (abhivinaya),[13] (không có khả năng) để
phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học
trò. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu
lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả
năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (có khả năng) để hướng
dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (có khả năng) để hướng dẫn về
Thắng Pháp, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật, (có khả năng) để phân
tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc
trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội,
không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo
truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích,
không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên
bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về
sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm
tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết,
khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ
thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên
bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội,
không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, chưa đủ mười
năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu
lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về
sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm
tội nặng, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ
năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho
sa di phục vụ.
Hết mười sáu nhóm năm của phần
“Nên ban phép tu lên bậc trên”
[99] Mười sáu nhóm sáu của phần
"Nên ban phép tu lên bậc trên"
[99] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép
tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị thành tựu
vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu
vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, được mười năm
hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị bản thân không thành tựu vô học giới uẩn và không giúp người
khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân không thành tựu vô học định uẩn và
không giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân không thành tựu vô học
tuệ uẩn và không giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân không thành
tựu vô học giải thoát uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn,
bản thân không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và không giúp người
khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ mười năm. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép
tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản thân
thành tựu vô học giới uẩn và giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân
thành tựu vô học định uẩn và giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân
thành tựu vô học tuệ uẩn và giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân
thành tựu vô học giải thoát uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn,
bản thân thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và giúp người khác đạt được
vô học giải thoát tri kiến uẩn, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho
nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê
sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu,
vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không
nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có đức
tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), có nỗ lực tinh tấn, có niệm
được thiết lập, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội
đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để
cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm
thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học
hỏi, trí kém, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện
này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để
cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị không
bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc
tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe
nhiều, có trí tuệ, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu
hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để
cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử
hay học trò bị bệnh, (không có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên
giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (không có khả năng để) giải tỏa hoặc
nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh
khởi, không biết về tội, không biết cách thoát khỏi tội, chưa đủ mười năm. Này
các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc
trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả
năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (có khả
năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự
chán nản, (có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi
đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, biết về tội, biết cách thoát khỏi
tội, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều
kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục
vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự
căn bản, (không có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm
hạnh, (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp, (không có khả năng) để hướng
dẫn về Thắng Luật, (không có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà
kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò, chưa đủ mười năm. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả
năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (có khả năng) để hướng
dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (có khả năng) để hướng dẫn về
Thắng Pháp, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật, (có khả năng) để phân
tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò,
được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện
này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội,
không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo
truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích,
không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc,
chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không
nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di
phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban
phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về
sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm
tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết,
khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ
thuộc, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu
điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di
phục vụ.
Hết mười sáu[14] nhóm sáu của phần
“Nên ban phép tu lên bậc trên”
[100] Giảng về Parivāsa cho
người trước đây là ngoại đạo
[100] Vào lúc bấy giờ, có người trước đây theo ngoại đạo trong
khi được thầy tế độ nói về vấn đề thuộc Giáo Pháp đã bắt bẻ lời dạy của thầy tế
độ rồi chuyển sang khu vực của chính ngoại đạo ấy. Người ấy đã quay trở lại lần
nữa và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, người nào trước đây theo ngoại đạo trong khi
được thầy tế độ nói về vấn đề thuộc Giáo Pháp đã bắt bẻ lời dạy của thầy tế độ
rồi chuyển sang khu vực của chính ngoại đạo ấy, người ấy đi đến thì không nên
cho tu lên bậc trên. Này các tỳ khưu, người nào khác trước đây theo ngoại đạo
mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này, mong mỏi việc tu lên bậc trên, nên
ban cho vị ấy bốn tháng parivāsa.[15] Này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy:
Trước tiên, nên bảo cạo bỏ râu tóc, bảo khoác lên các tấm vải màu
ca-sa, bảo đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi
chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy”:
“Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo ấy nên đi đến hội
chúng, nên đắp thượng y một bên vai, nên đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm
hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo mong mỏi
việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội
chúng bốn tháng parivāsa.”
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy)
trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này.
Vị ấy cầu xin hội chúng bốn tháng parivāsa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội
chúng, hội chúng nên ban cho vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo bốn
tháng parivāsa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy)
trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này.
Vị ấy cầu xin hội chúng bốn tháng parivāsa. Hội chúng ban cho vị tên (như vầy)
trước đây theo ngoại đạo bốn tháng parivāsa. Đại đức nào đồng ý việc ban cho bốn
tháng parivāsa đến vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo xin im lặng; vị
nào không đồng ý có thể nói lên.
Bốn tháng parivāsa đã được hội chúng ban cho vị tên (như vầy) trước
đây theo ngoại đạo. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận
sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế này là
người đạt yêu cầu (ārādhako), như thế này là người không đạt yêu cầu
(anārādhako).
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế nào là
người không đạt yêu cầu?
Này các tỳ khưu, trường hợp người trước đây theo ngoại đạo đi vào
làng quá sớm và trở về quá trễ. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo
như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo lai vãng với đĩ điếm (vesiyāgocaro), lai vãng với góa phụ, lai vãng với gái
lỡ thời, lai vãng với người vô căn,[16] lai vãng với tỳ khưu ni. Này các tỳ
khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, có những công việc gì đó lớn
nhỏ của các vị có Phạm hạnh cần phải làm, trong những trường hợp ấy người trước
đây theo ngoại đạo lại không khéo léo, không kiên nhẫn, không có được những tìm
tòi cách giải quyết các vấn đề ấy, không đủ khả năng làm, không đủ khả năng hướng
dẫn người khác làm. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy
là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo không có ước muốn mãnh liệt trong việc đọc tụng, (không có ước muốn mãnh liệt)
trong việc tìm hiểu ý nghĩa, (không có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng giới,
(không có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tâm, (không có ước muốn mãnh liệt)
trong tăng thượng tuệ.[17] Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như
thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời chê bai về
vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó
người ấy đã chuyển sang; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời chê bai
về Phật Pháp Tăng; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời khen ngợi
về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ
đó người ấy đã chuyển sang; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời khen ngợi
về Phật Pháp Tăng. Này các tỳ khưu, đây là điểm chủ yếu trong việc không đạt
yêu cầu của người trước đây theo ngoại đạo. Này các tỳ khưu, người trước đây
theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo đã đi đến (nếu)
là người không đạt yêu cầu như thế ấy thì không nên cho tu lên bậc trên.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế nào là
người đạt yêu cầu?
Này các tỳ khưu, trường hợp người trước đây theo ngoại đạo đi vào
làng không quá sớm và trở về không quá trễ. Này các tỳ khưu, người trước đây
theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo không lai vãng với đĩ điếm, không lai vãng với góa phụ, không lai vãng với
gái lỡ thời, không lai vãng với người vô căn, không lai vãng với tỳ khưu ni.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, có những công việc gì đó lớn
nhỏ của các vị có Phạm hạnh cần phải làm, trong những trường hợp ấy người trước
đây theo ngoại đạo là khéo léo, kiên nhẫn, có được những tìm tòi cách giải quyết
các vấn đề ấy, có đủ khả năng làm, có đủ khả năng hướng dẫn người khác làm. Này
các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo có ước muốn mãnh liệt trong việc đọc tụng, (có ước muốn mãnh liệt) trong việc
tìm hiểu ý nghĩa, (có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng giới, (có ước muốn
mãnh liệt) trong tăng thượng tâm, (có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tuệ.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại
đạo trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời chê bai về vị thầy, về quan
điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó người ấy đã chuyển
sang; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời chê bai về
Phật Pháp Tăng; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời khen ngợi
về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ
đó người ấy đã chuyển sang; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời khen ngợi
về Phật Pháp Tăng. Này các tỳ khưu, đây là điểm chủ yếu trong việc đạt yêu cầu
của người trước đây theo ngoại đạo. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại
đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo đã đi đến (nếu)
là người đạt yêu cầu như thế ấy thì nên cho tu lên bậc trên.
Này các tỳ khưu, nếu người trước đây theo ngoại đạo là trần truồng
đi đến, y là trách nhiệm thuộc về thầy tế độ cần được tìm kiếm. Nếu người có
tóc chưa được cắt đi đến thì hội chúng nên được thông báo về việc cạo tóc (bhaṇḍukamma). Này các tỳ khưu, những người là các
vị thờ lửa là các đạo sĩ bện tóc, (nếu) các vị ấy đã đi đến thì nên cho tu lên
bậc trên, không cần ban cho parivāsa đến những người ấy. Lý do của điều ấy là
gì? Này các tỳ khưu, những người ấy là những người thuyết về Nghiệp, là những
người thuyết về Nhân Quả (kiriyavādī). Này các tỳ khưu, nếu người trước đây
theo ngoại đạo là người thuộc dòng Sākya (Thích Ca) đi đến, khi người ấy đã đi
đến thì nên cho tu lên bậc trên, không cần ban cho parivāsa đến người ấy. Này
các tỳ khưu, ta ban cho đặc ân ngoại lệ này đến các thân quyến.
Phần nói về người trước đây theo
ngoại đạo
Hết Tụng phẩm thứ bảy
[1] Dvādasa + nahuta = 12
nahuta. Chúng tôi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa là: 1 nahuta =
10.000, như vậy 12 nahuta = 120.000. Từ điển “A dictionary of the Pali
Language” của Robert Cæsar Childers ghi là: 1 nahuta = 10.000.0004, tức là 28
con số không (0) sau con số một, như thế 12 nahuta là một con số quá lớn, không
hợp lý trong trường hợp này.
[2] Dasavāso: Ngài Buddhaghosa
giải thích là “dasasu ariyavāsesu vutthavāso = sự cư trú trong mười pháp của bậc
Thánh” (H.T. Minh Châu dịch là “Mười Thánh cư,” xem kinh Phúng Tụng, phần Mười
Pháp, Kinh Trường Bộ, hoặc chương 10 pháp, phẩm 2, Kinh Tăng Chi Bộ).
[3] Ngài Buddhaghosa giải
thích là vị thông hiểu về “dasakammapatha = mười đường lối tạo nghiệp” gồm có
mười nghiệp bất thiện và mười nghiệp thiện (liên quan đến thân có 3, khẩu có 4,
và ý có 3): không sát sanh, không trộm cắp, ..., không tà kiến ác.
[4] Ngài Buddhaghosa giải thích
là “mười pháp của bậc vô học” gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy, ..., chánh trí,
chánh giải thoát (chương 10 pháp, phẩm 11, Kinh Tăng Chi Bộ)
[5] Saddhivihārika: vị sống
chung trú xá (dịch theo từ).
[6] Theo lời giải thích của
ngài Mahāsamaṇa Chao, nếu gấp đôi y lại sẽ
có đường gấp ở chính giữa, phần giữa này sẽ ở phần sau lưng khi trùm y vào và
là phần thường bị hư hỏng trước nhất do sự cọ xát. Cách gấp y như vầy để hạn chế
điều ấy (Vinayamukha 2, trang 75).
[7] Ngài Buddhaghosa giải
thích là sự rèn luyện về tâm từ.
[8] Tăng thượng giới
(adhisīla) gồm bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa.
[9] Tăng thượng hạnh
(ajjhācāra) là các tội còn lại thuộc năm nhóm tội của giới bổn Pātimokkha.
[10] Ba điều này được ghi lại
theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa.
[11] Ngài Buddhaghosa giải
thích abhisamācārikā là phận sự được quy định ở trong Khandhaka tức là
Mahāvagga (Đại Phẩm) và Cullavagga (Tiểu Phẩm).
[12] Ngài Buddhaghosa giải
thích ādibrahmacariyakā là phần quy định dành cho bậc hữu học.
[13] Theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa: Hướng dẫn về Thắng Pháp là có khả năng hướng dẫn về sự phân
biệt Danh Sắc, và hướng dẫn về Thắng Luật là hướng dẫn về toàn bộ Tạng Luật.
[14] Đếm lại chỉ có mười bốn
nhóm sáu.
[15] Trường hợp vị tỳ khưu phạm
tội saṅghādisesa (tăng tàng) có che giấu muốn được trong sạch trở lại
phải xin hành phạt cũng có tên là parivāsa. Tuy có tên gọi giống nhau nhưng phận
sự thực hành không giống nhau.
[16] Từ Pāli là paṇḍaka nói về người nam paṇḍaka. Về người nữ các từ được
tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương
là “eunuch” được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Lâu nay, chúng
tôi hiểu theo ý nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ “jātipaṇḍaka” mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika (bất cộng
trụ) thứ nhất ở Mahāvibhaṅga (Bộ Phân Tích Giới Bổn),
chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục (việc xác định
nam hay nữ là do các đặc tính khác). Chúng tôi dùng từ “vô căn” để dịch từ paṇḍaka theo như đã được sử dụng trong một số bản dịch của các vị tiền
bối. Đối nghịch với hạng người này, còn có hạng người “ubhatovyañjana,” chúng
tôi tạm dùng từ Việt là “lưỡng căn” thì có luôn cả hai bộ phận sinh dục nam và
nữ.
[17] Adhisīla: Tăng thượng giới
là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp
thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
Xem Tụng Phẩm 8 - Quay Về Mục Lục Chương 1 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments