Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 1. Trọng Yếu (MahākhandhakaṂ)
5. Tụng phẩm thứ năm
Mục Lục
[77] Nguyên nhân dẫn đến việc quy định về thầy tế độ
[81] Phận sự đối với thầy tế độ
[82] Phận sự đối với đệ tử
[83] Giảng về sự đuổi đi đệ tử
[84] Năm điều kiện của người đệ tử
[85] Sự xuất gia của người bà-la-môn bằng tuyên ngôn
[86] Nghi thức cầu xin sự tu lên bậc trên. Tuyên ngôn tu lên bậc
trên
[87] Cho phép giải thích về bốn vật nương nhờ
Nội Dung
[77] Nguyên nhân dẫn đến việc
quy định về thầy tế độ
[77] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không có thầy tế độ, trong khi không được giáo huấn và không được chỉ dạy nên mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực. Khi dân chúng đang ăn, các vị đưa bình bát đã mở ra (uttiṭṭhapattaṃ) ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, và các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm
thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn
các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng),
các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị lại đưa
bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở
ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị
sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn giống như các
bà-la-môn trong bữa ăn của các bà-la-môn vậy?
[78] Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học
tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các vị tỳ khưu lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm,
hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn, các vị
lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị
lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị lại đưa bình
bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở
phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống
(thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn vậy?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[79] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập
hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu mặc y luộm thuộm, trùm y
luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng
đang ăn, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân
chúng), các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị đưa
bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị đưa bình bát đã mở ra
ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống
(thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật
không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên
làm! Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm
thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang
ăn, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân
chúng), các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị
lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình
bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ
thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn?
Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu,
hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức
tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[80] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các vị tỳ khưu ấy bằng
nhiều phương thức. Ngài đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự
khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe
nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng
trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ,
sự từ khước, sự tiết chế, sự thân thiện, sự không gom góp, sự ra sức nỗ lực.
Ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị thầy tế độ. Này các tỳ khưu, vị
thầy tế độ sẽ gợi lên ở người đệ tử[5] tâm của người con và người đệ tử sẽ gợi
lên ở vị thầy tế độ tâm của người cha. Như thế, trong khi sống cùng nhau có sự kính
trọng, có sự vâng lời, có sự tiếp xúc với nhau, họ sẽ đạt đến sự lớn mạnh, sự
tăng trưởng, sự phát triển trong Pháp và Luật này. Và này các tỳ khưu, vị thầy
tế độ nên được xác định như vầy:
(Người đệ tử) nên đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân, ngồi
chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy tế
độ của con. Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy tế độ của con. Bạch ngài, xin ngài
hãy là thầy tế độ của con.”
(Vị thầy tế độ nên nói rằng): “Tốt rồi!” hay là “Được nhẹ nhàng rồi!”
hay là “Đúng rồi!” hay là “Được phù hợp rồi!” hay là “Hãy tiếp tục với sự hoan
hỷ!”
(Nếu) vị (thầy tế độ) bày tỏ bằng thân, bày tỏ bằng lời nói, bày
tỏ bằng thân và lời nói, thì vị thầy tế độ đã được xác định. (Nếu) vị ấy không
bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ bằng thân và lời nói,
vị thầy tế độ đã không được xác định.
[81] Phận sự đối với thầy tế độ
[81] Này các tỳ khưu, người đệ tử nên thực hành phận sự đúng đắn đối với vị thầy tế độ. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Nên thức dậy vào lúc sáng sớm, cởi dép ra, đắp thượng y một bên
vai, rồi nên dâng lên gỗ chà răng, nên dâng nước súc miệng, và nên sắp xếp chỗ
ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi dâng cháo. Khi thầy đã uống cháo xong,
nên dâng nước, nên nhận lại tô để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà
xát mạnh, rồi đem cất. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực
ấy có rác thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý định đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận
lại y lót trong (khác từ vị thầy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn
gàng rồi dâng lên. Nên trao bình bát còn đẫm nước (patto saudako) sau khi đã rửa
sạch. Nếu thầy tế độ muốn có thị giả đi theo, vị ấy nên mặc y nội tròn đều với
sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh rồi đắp y
hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi theo làm
thị giả cho thầy tế độ. Không nên đi quá xa, không nên đi quá gần. Nên nhận lấy
bình bát (của vị thầy) và vật được chứa đựng (trong đó). Khi thầy tế độ đang
nói, không nên cắt ngang lời nói nửa chừng. Khi thầy tế độ có khả năng phạm tội
lúc đang nói thì nên nhắc nhở.
Khi quay trở về, nên đi về trước tiên. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên
đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát.
Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị
thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng
quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại
(nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.”[6] Nên đặt dây thắt lưng
ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và thầy tế độ có ý muốn thọ dụng thì nên
dâng nước (rửa) và đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên dâng lên thầy tế độ nước
uống. Khi thầy ăn xong nên dâng nước (rửa). Nên nhận lại bình bát rồi đem để ở
chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước, rồi đem
phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên
đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình
bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống.
Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một
tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia,
còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp
chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy
có rác thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (thầy tế
độ) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị
nước nóng. Nếu thầy tế độ có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm
ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi rồi đi đến từ phía sau lưng, nên
trao ghế ngồi của nhà tắm hơi cho thầy tế độ, nên nhận lấy y và để ở một bên.
Nên trao bột tắm, nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi
đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn
phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng
lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở
trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho thầy tế độ. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy
cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi
nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho thầy tế độ lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra
trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở
thân thể của thầy tế độ. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy
ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa
chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên dâng nước uống đến thầy tế độ. Nếu có ý muốn
thỉnh (thầy) đọc tụng, nên thỉnh (thầy) đọc tụng. Nếu có ý muốn vấn đạo, nên thỉnh
(thầy) vấn đạo.
Ở trú xá nào thầy tế độ cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm
sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để
xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên
đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra
ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa
lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo
léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một
góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra
ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một
góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để
xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời
(chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được
sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu
nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau
sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không
nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một
góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem
vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung
giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi
nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một
cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp
đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập
giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va
chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước
đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và
sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ,
nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước
đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị
trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong
và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống,
nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế
rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật
kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi
y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông
nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng
tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng
bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng
nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và
khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày
và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên
quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt
lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét
nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không
có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào
hũ nước súc miệng.
Nếu sự không hoan hỷ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm
cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp
cho vị thầy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm cho
tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp
cho vị thầy. Nếu tà kiến sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên phân giải hoặc
nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu thầy
tế độ bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, người đệ tử nên nỗ lực:
“Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho thầy tế độ?” Nếu thầy
tế độ xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế
nào để hội chúng có thể cho thầy tế độ (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu thầy tế
độ xứng đáng hành phạt mānatta, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội
chúng có thể ban hành phạt mānatta cho thầy tế độ?” Nếu thầy tế độ xứng đáng sự
giải tội, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho
thầy tế độ?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy,
hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ tử nên
nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với thầy tế
độ, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc
chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ
tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để thầy tế độ có thể làm bổn phận một cách nghiêm
chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi
hành sự này?”
Nếu y của thầy tế độ cần phải giặt, người đệ tử nên giặt hoặc nên
nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được giặt?” Nếu y của thầy tế độ cần
phải may, người đệ tử nên may hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ
được may?” Nếu thuốc nhuộm của thầy tế độ cần phải nấu, người đệ tử nên nấu hoặc
nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của thầy tế độ được nấu?” Nếu y của thầy
tế độ cần phải nhuộm, người đệ tử nên nhuộm hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y
của thầy tế độ được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên nhuộm bằng cách đảo tới đảo
lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Không có phép của thầy tế độ, không nên cho bình bát đến người
khác. Không nên thọ lãnh bình bát của người khác. Không nên cho y đến người
khác. Không nên thọ lãnh y của người khác. Không nên cho vật dụng đến người
khác. Không nên thọ lãnh vật dụng của người khác. Không nên cạo tóc cho người
khác. Không nên bảo người khác cạo tóc. Không nên kỳ cọ người khác. Không nên bảo
người khác kỳ cọ. Không nên hầu hạ người khác. Không nên bảo người khác hầu hạ.
Không nên làm thị giả người khác. Không nên nhận người khác làm thị giả. Không
nên mang đồ ăn khất thực lại dùm người khác. Không nên nhờ người khác mang dùm
đồ ăn khất thực lại. Chưa xin phép thầy tế độ không nên đi vào làng, không nên
đi đến mộ địa, không nên bỏ đi hướng khác. Nếu thầy tế độ bị bệnh, nên phục vụ
cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi vị thầy khỏe lại.
Hết phận sự đối với thầy tế độ
[82] Phận sự đối với đệ tử
[82] Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người đệ tử. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Này các tỳ khưu, thầy tế độ nên quan tâm đến người đệ tử, nên
giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy.
Nếu thầy tế độ có bình bát và người đệ tử không có bình bát, thầy tế độ nên cho
bình bát đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát
sanh đến đệ tử?” Nếu thầy tế độ có y và người đệ tử không có y, thầy tế độ nên
cho y đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến
đệ tử?” Nếu thầy tế độ có vật dụng và người đệ tử không có vật dụng, thầy tế độ
nên cho vật dụng đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có
thể phát sanh đến đệ tử?”
Nếu người đệ tử bị bệnh, (vị thầy tế độ) nên thức dậy vào lúc
sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi.
Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi đem cháo lại. Khi người đệ tử đã uống cháo
xong, nên trao nước (rửa), nên nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận
không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi.
Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và
nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp
gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch.
(Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước
rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y
lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ
hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá
lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại
(nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở
phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và người đệ tử có ý muốn ăn thì nên trao
nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho đệ tử nước uống.
Khi người đệ tử ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp,
rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng
trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và
bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ
ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên
đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y,
tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp
y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi.
Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến
thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người
đệ tử) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn
bị nước nóng. Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm,
nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của
nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi nên đem để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất
sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất
sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi.
Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua
đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người
đệ tử. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau
khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho
người đệ tử lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở
thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người đệ tử.
Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi,
đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm
chà chân. Nên đem nước uống đến cho người đệ tử.
Ở trú xá nào người đệ tử cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên
làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi
để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc,
nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem
ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa
lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo
léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một
góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra
ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một
góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để
xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời
(chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được
sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu
nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau
sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không
nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một
góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem
vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung
giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi
nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một
cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp
đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập
giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va
chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước
đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và
sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ,
nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước
đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị
trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong
và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống,
nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế
rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật
kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi
y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông
nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng
tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng
bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng
nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và
khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày
và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên
quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt
lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét
nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không
có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào
hũ nước súc miệng.
Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên
làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng
Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên làm
cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng
Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên phân giải
hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu
người đệ tử bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy tế độ nên nỗ
lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho đệ tử?” Nếu
người đệ tử xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy tế độ nên nỗ lực:
“Làm thế nào để hội chúng có thể cho đệ tử (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người
đệ tử xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội
chúng có thể ban hành phạt mānatta cho đệ tử?” Nếu người đệ tử xứng đáng sự giải
tội, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho đệ
tử?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc
xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ nên nỗ
lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với đệ tử, hoặc
đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy,
hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ
nên nỗ lực: “Làm thế nào để đệ tử có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở
nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự
này?”
Nếu y của người đệ tử cần phải giặt, vị thầy tế độ nên hướng dẫn:
“Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được giặt?”
Nếu y của người đệ tử cần phải may, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên may
như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được may?” Nếu thuốc nhuộm
của người đệ tử cần phải nấu, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,”
hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của đệ tử được nấu?” Nếu y của người
đệ tử cần phải nhuộm, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,”
hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được nhuộm?” Trong khi nhuộm y,
nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Nếu người đệ tử bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người đệ
tử khỏe lại.
Hết phận sự đối với đệ tử
[83] Giảng về sự đuổi đi đệ tử
[83] Vào lúc bấy giờ, các người đệ tử không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận sự đúng đắn đối
với các vị thầy tế độ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các người đệ tử không thực hành phận
sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận
sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ?
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, người đệ tử cần thực hành phận sự đúng đắn đối
với các vị thầy tế độ; vị nào không thực hành đúng đắn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
(Các người đệ tử) vẫn không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đuổi đi người (đệ tử) không thực
hành phận sự đúng đắn. Và này các tỳ khưu, nên đuổi đi như vầy: “Ta đuổi ngươi
đi,” hay là “Đừng có quay trở lại đây,” hay là “Hãy đem đi y bát của ngươi,”
hay là “Ta không giúp đở ngươi nữa.” (Nếu) vị (thầy tế độ) bày tỏ bằng thân,
bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người đệ tử đã bị đuổi
đi. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ
bằng thân và lời nói, thì người đệ tử không bị đuổi đi
Vào lúc bấy giờ, những người đệ tử bị đuổi đi đã không xin lỗi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xin lỗi.
Các người (đệ tử) vẫn không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, người (đệ tử) bị đuổi đi không nên không xin lỗi;
vị nào không xin lỗi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, khi được xin lỗi các vị thầy tế độ không tha thứ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tha thứ.
Các vị (thầy tế độ) vẫn không tha thứ. Những người đệ tử bỏ đi,
(hoặc) hoàn tục, (hoặc) theo ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được xin lỗi không nên không tha thứ; vị
nào không tha thứ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[84] Năm điều kiện của người đệ
tử
[84] Vào lúc bấy giờ, các vị thầy tế độ đuổi đi những người (đệ tử) thực hành phận sự đúng đắn, không đuổi đi những người (đệ tử) không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người (đệ tử) thực hành phận
sự đúng đắn; vị nào đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên
không đuổi đi người (đệ tử) không thực hành phận sự đúng đắn; vị nào không đuổi
đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối
với thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin, không có
nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện.[7]
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện:
Đối với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có nhiều nể nang,
có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, không nên đuổi
đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người đệ tử là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều
kiện: Đối với thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin,
không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn
luyện. Này các tỳ khưu, người đệ tử là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện
này.
Này các tỳ khưu, người đệ tử là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ
năm điều kiện: Đối với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có
nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ
khưu, người đệ tử là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi không đuổi
đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối với
thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin, không có nhiều
nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ
khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không vượt qua quy
định khi đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi đuổi đi,
không vượt qua quy định khi không đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối
với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có nhiều nể nang, có
nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là
vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người
đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
[85] Sự xuất gia của người
bà-la-môn bằng tuyên ngôn
[85] Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã không ưng thuận cho người ấy xuất gia. Người ấy trong khi không đạt được sự xuất gia ở nơi các tỳ khưu đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người bà-la-môn ấy ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, việc gì khiến người bà-la-môn ấy ốm o, cằn cỗi,
xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?
- Bạch ngài, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu
xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã không ưng thuận cho người ấy xuất gia. Người ấy
trong khi không đạt được sự xuất gia ở nơi các tỳ khưu đã trở nên ốm o, cằn cỗi,
xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, có vị nào nhớ được điều tốt đẹp của người
bà-la-môn ấy?
Khi được nói như vậy, đại đức Sārīputta đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, con nhớ được điều tốt đẹp của người bà-la-môn ấy.
- Này Sārīputta, ngươi nhớ được điều tốt đẹp gì của người
bà-la-môn ấy?
- Bạch ngài, trường hợp này là khi con đang đi khất thực ở trong
thành Rājagaha, người bà-la-môn ấy đã sai người cho một muỗng vật thực. Bạch
ngài, đó là điều tốt đẹp của người bà-la-môn ấy mà con nhớ được.
- Này Sārīputta, tốt lắm, tốt lắm! Này Sārīputta, bởi vì những người
tốt là những người biết ơn và nhớ ơn đã thọ. Này Sārīputta, chính vì điều ấy
ngươi hãy cho người bà-la-môn ấy xuất gia và tu lên bậc trên.
- Bạch ngài, con cho người bà-la-môn ấy xuất gia và tu lên bậc
trên như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, việc tu lên bậc trên bằng Tam Quy đã được ta
cho phép, kể từ nay ta hủy bỏ việc ấy. Này các tỳ khưu, ta cho phép tu lên bậc
trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Và này các tỳ khưu, nên cho
tu lên bậc trên như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như
vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với
đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy)
có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như
vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng
ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế
độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại
đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức
tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên
(như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng
ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại
đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức
tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên
(như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng
ý có thể nói lên.
Vị tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức
tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi
ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[86] Nghi thức cầu xin sự tu
lên bậc trên. Tuyên ngôn tu lên bậc trên
[86] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ vừa mới được tu lên bậc trên thực hiện hành động sai trái. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức, chớ có hành động như thế, điều ấy không được phép.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Tôi đâu có cầu xin các đại đức rằng: “Các đại đức hãy cho tôi
tu lên bậc trên.” Tại sao các ngài khi chưa được tôi cầu xin mà đã cho tu lên bậc
trên?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không cầu
xin; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ban
phép tu lên bậc trên đối với người đã cầu xin. Và này các tỳ khưu, nên được cầu
xin như vầy:
Vị có ý muốn tu lên bậc trên ấy nên đi đến hội chúng tỳ khưu, đắp
thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay
lên, và nên nói với hội chúng như vầy:
- Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch
các ngài, vì lòng thương xót xin hội chúng hãy tế độ tôi.
Nên được cầu xin đến lần thứ nhì. Nên được cầu xin đến lần thứ
ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như
vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Vị tên (như vầy) cầu
xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Nếu
là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho vị tên (như vầy) tu lên
bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy)
có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Vị tên (như vầy) cầu xin hội
chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho
vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức
nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là
thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Vị tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức
tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi
ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[87] Cho phép giải thích về bốn
vật nương nhờ
[87] Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Rājagaha sự tuần tự của các bữa
ăn gồm các thức ăn hảo hạng đã được tiến hành đều đặn. Khi ấy, có người
bà-la-môn nọ đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải
mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những
cái giường kín gió, hay là ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử này?” Sau
đó, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu cầu xin sự xuất gia. Các tỳ
khưu đã cho người ấy xuất gia và tu lên bậc trên. Khi người ấy đã được xuất
gia, sự tuần tự của các bữa ăn đã bị ngưng lại. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đại đức, hãy đến. Hôm nay chúng ta sẽ đi khất thực.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi đã không xuất gia vì nguyên nhân này: “Ta
sẽ đi khất thực.” Nếu các vị cho tôi thì tôi sẽ ăn, nếu các vị không cho tôi
thì tôi sẽ hoàn tục.
- Này đại đức, có phải ngài đã xuất gia vì nguyên nhân của bao tử?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết
giảng như vầy vì nguyên nhân của bao tử?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đã xuất gia vì nguyên nhân của bao
tử, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại xuất gia trong Pháp và Luật được
khéo thuyết giảng như vầy vì nguyên nhân của bao tử? Này kẻ rồ dại, sự việc này
không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin
của những người đã có đức tin. ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đang ban phép tu lên bậc trên
giải thích về bốn vật nương nhờ:
“Việc xuất gia nương vào thức ăn do khất thực, trong trường hợp ấy
ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bữa ăn
dâng hội chúng, bữa ăn được chỉ định, sự mời thỉnh, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa
tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.
Việc xuất gia nương vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ; trong trường
hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là
(y làm bằng) sợi lanh (khomaṃ), bông vải (kappāsikaṃ), tơ lụa (koseyyaṃ), sợi len (kambalaṃ), gai thô (sāṇam), chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Việc xuất gia nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây; trong trường hợp ấy
ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là trú xá
(vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
Việc xuất gia nương vào dược phẩm là nước tiểu gia súc, trong trường
hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là
bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật ong (madhu), đường mía (phānitaṃ).”
Hết tụng phẩm về phận sự đối với
thầy tế độ
Xem Tụng Phẩm 6 - Quay Về Mục Lục Chương 1 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments