Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 1. Trọng Yếu (MahākhandhakaṂ)
3. Tụng phẩm thứ ba
Mục Lục
[37] Câu chuyện về các đạo sĩ bện tóc. Điều kỳ diệu thứ nhất
[40] Điều kỳ diệu thứ nhì. Điều kỳ diệu thứ ba. Điều kỳ diệu thứ
tư
[42] Điều kỳ diệu thứ năm. Buổi đại lễ cúng tế
[44] Y paṃsukūla của đức Thế
Tôn
[45] Những điều kỳ diệu khác
[51] Sự xuất gia của Uruvelakassapa, Nadīkassapa, Gayākassapa
[55] Bài kinh "Bị Cháy Rực"
Nội Dung
[37] Câu chuyện về các đạo sĩ
bện tóc. Điều kỳ diệu thứ nhất
[37] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Uruvelā. Vào lúc bấy giờ, có ba vị đạo sĩ bện tóc đang cư trú ở Uruvelā là Uruvelakassapa, Nadīkassapa, và Gayākassapa. Trong số các vị ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Nadīkassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của ba trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Gayākassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của hai trăm đạo sĩ bện tóc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã đi đến khu ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta[13] có
thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
- Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng
chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho
nó hại ngài được.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta có thể
ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
- Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng
chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho
nó hại ngài được.
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta có thể
ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
- Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng
chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho
nó hại ngài được.
- Biết đâu nó có thể không hại tôi. Này Kassapa, ngươi hãy cho
phép (ta cư ngụ) nhà thờ lửa đi.
- Này vị đại sa-môn, vậy thì hãy cư ngụ một cách thoải mái.
Sau đó, đức Thế Tôn đã đi vào nhà thờ lửa, sắp đặt tấm thảm trải
bằng cỏ, rồi ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm
ở phía trước.
[38] Khi ấy, con rồng ấy đã nhìn thấy đức Thế Tôn đi vào, sau khi
nhìn thấy trở nên không vui, bực bội, nên đã phun khói. Khi ấy, đức Thế Tôn đã
khởi ý điều này: “Có lẽ ta không nên làm thương tổn đến lớp vỏ, làn da, thịt,
gân, xương, tủy của con rồng này mà chỉ nên dùng lửa (của ta) làm cho lửa (của
nó) bị kiệt quệ thôi.” Sau đó, đức Thế Tôn đã thực hiện phép thần thông có hình
thức tương tợ và đã phun khói. Khi ấy, con rồng không còn đè nén được cơn giận
nên đã phun ra lửa. Đức Thế Tôn cũng đã nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa.
Trong khi cả hai bên đều ở trong trạng thái rực sáng, ngôi nhà thờ lửa cũng ở
trong trạng thái rực sáng như đang bị đốt cháy sáng rực vậy. Khi ấy, những đạo
sĩ bện tóc ấy đã vây xung quanh nhà thờ lửa và nói như vầy:
- Quả thật vị đại sa-môn có vóc dáng xinh đẹp đã bị con rồng hãm
hại!
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức Thế Tôn đã không làm thương tổn đến
lớp vỏ, làn da, thịt, gân, xương, tủy của con rồng này mà đã dùng lửa (của
ngài) làm cho lửa (của nó) bị kiệt quệ, rồi bỏ vào trong bình bát, và đưa cho đạo
sĩ bện tóc Uruvelakassapa xem (nói rằng):
- Này Kassapa, đây là con rồng của ngươi. Lửa của nó đã bị lửa (của
ta) làm cho kiệt quệ.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy đã dùng lửa (của vị
ấy) làm cho lửa của con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc
khủng khiếp bị kiệt quệ nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta
đây.”
[39]
Ở Nerañjarā
đức Thế Tôn đã nói
với đạo sĩ bện tóc
xứ Uruvela
tên Kassapa rằng:
- Hỡi này Kassapa,
nếu không trở ngại
ngươi hãy cho ta ngụ
trong giảng đường thờ lửa
vào trong đêm trăng này.
- Này vị đại sa-môn,
tôi chẳng khó khăn gì
giúp ngài được an lạc.
Có rồng chúa dữ tợn
là rắn có pháp thuật,
nọc độc thật khủng khiếp
không để nó hại ngài.
- Biết đâu nó không thể
hãm hại được ta đây.
Hỡi này Kasspa,
thuận cho nhà thờ lửa.
Được biết “Đã cho phép”
đi vào, không khiếp đảm,
hãi sợ đã không còn.
Thấy ẩn sĩ đi vào,
rồng chúa thành bực bội
đã phun ra đám khói.
Vị chúa của loài người
tâm hòa dịu, thản nhiên,
tại đó, phun khói lại.
Không nén nỗi bực tức
rồng chúa đã phun lửa
như là đám hỏa hoạn.
Vị chúa của loài người
thiện xảo đề mục lửa,
tại đó, phun lửa lại.
Cả hai chìm trong lửa
nhà thờ lửa rực lửa
toàn bộ đều sáng rực
với ánh sáng chói chang.
Các đạo sĩ bện tóc
bàn bạc: “Thật tuấn tú
là vị đại sa-môn
đã bị loài rắn hại!”
Rồi đêm đã qua đi,
lửa rồng chúa chẳng còn,
nhiều ngọn lửa đủ màu
của vị có thần lực
xanh, đỏ, hồng, vàng chói,
màu trong suốt từ thân
vị Aṅgirasa
Bỏ rồng vào bình bát,
vị ấy đã đưa ra
cho bà-la-môn thấy:
- Hỡi này bà-la-môn,
đây là rồng của ngươi
lửa nó bị kiệt quệ
vì ngọn lửa của ta.[14]
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa vô cùng hoan hỷ với sự kỳ diệu của thần thông này của đức
Thế Tôn nên đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, hãy cư ngụ ngay tại đây, tôi có thức ăn trường
kỳ cho ngài.
Hết điều kỳ diệu thứ nhất
[40] Điều kỳ diệu thứ nhì. Điều
kỳ diệu thứ ba. Điều kỳ diệu thứ tư
[40] Sau đó, đức Thế Tôn đã cư ngụ trong khu rừng rậm nọ không xa chỗ ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa. Khi ấy vào lúc đêm khuya, bốn vị Đại Thiên Vương với hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị
đại sa-môn, trong lúc đêm khuya những ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng
toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở
bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ vậy?
- Này Kassapa, những vị ấy là bốn vị Đại Thiên Vương đã đi đến gặp
ta để nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì ngay cả bốn vị Đại Thiên
Vương còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống
như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Hết điều kỳ diệu thứ nhì
[41] Sau đó, trong lúc đêm khuya vị chúa của chư thiên Sakka với
hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế
Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa
khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây
nữa. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị
đại sa-môn, trong lúc đêm khuya ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ
khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở một
bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào
quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?
- Này Kassapa, vị ấy là chúa của chư thiên Sakka đã đi đến gặp ta
để nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì ngay cả chúa của chư
thiên Sakka còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán
giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Hết điều kỳ diệu thứ ba
[42] Điều kỳ diệu thứ năm. Buổi
đại lễ cúng tế
[42] Sau đó, trong lúc đêm khuya vị Phạm thiên Sahampati với hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị
đại sa-môn, trong lúc đêm khuya ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ
khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở một
bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào
quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?
- Này Kassapa, vị ấy là Phạm thiên Sahampati đã đi đến gặp ta để
nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị Phạm thiên Sahampati
còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta
đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Hết điều kỳ diệu thứ tư
[43] Vào lúc bấy giờ, buổi đại lễ cúng tế của đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa đã đến. Toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha đem lại nhiều thức ăn loại cứng
loại mềm có ý muốn tham dự. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều
này: “Lúc này đây buổi đại lễ cúng tế của ta đã đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại
cứng loại mềm và tham dự, nếu vị đại sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông
trước đám đông thì lợi lộc và cung kỉnh sẽ tăng trưởng cho vị đại sa-môn còn lợi
lộc và cung kỉnh của ta sẽ bị giảm đi; vậy thì vị đại sa-môn không nên đi đến
vào ngày mai.” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đạo sĩ
bện tóc Uruvelakassapa nên đã đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, rồi đem đồ ăn khất
thực ở nơi ấy đến hồ Anotatta, sau khi thọ thực xong đã trú ngay tại nơi ấy trọn
ngày.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị
đại sa-môn, việc gì khiến ngài đã không đi đến ngày hôm qua? Tuy nhiên, chúng
tôi cũng có nhớ đến ngài rằng: “Việc gì khiến vị đại sa-môn không đi đến?” và
phần san sẽ về thức ăn đã được để dành cho ngài.
- Này Kassapa, thế không phải ngươi đã khởi ý điều này: “Lúc này
đây buổi đại lễ cúng tế của ta đã đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại
cứng loại mềm và tham dự, nếu vị đại sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông
trước đám đông thì lợi lộc và cung kỉnh sẽ tăng trưởng cho vị đại sa-môn còn lợi
lộc và cung kỉnh của ta sẽ bị giảm đi, vậy thì vị đại sa-môn không nên đi đến
vào ngày mai.” Này Kassapa, ta đây dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ngươi
nên đã đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, rồi đem đồ ăn khất thực ở nơi ấy đến hồ
Anotatta, sau khi thọ thực xong đã trú ngay tại nơi ấy trọn ngày.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy còn biết được tâm
bằng tâm, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Hết điều kỳ diệu thứ năm
[44] Y paṃsukūla của đức Thế Tôn
[44] Vào lúc bấy giờ, có vải paṃsukūla[15] đã phát sanh đến đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã dùng tay đào thành cái hồ nước rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy giặt vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể nhồi vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của
chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã mang lại
tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nhồi vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể nắm vào vật gì
và bước lên?” Khi ấy, vị thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ý nghĩ
suy tầm của đức Thế Tôn nên đã uốn cong cành cây xuống rồi nói với đức Thế Tôn
điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nắm vào đây và bước lên.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể phơi khô vải
paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của
chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã mang lại
tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị
đại sa-môn, có phải trước kia ở đây không có cái hồ nước này, giờ ở đây lại có
cái hồ nước này? Trước kia hòn đá này không được đem lại, do ai mà hòn đá này
đã được đem lại? Trước kia cành của cây Kakudha này không bị uốn cong xuống, giờ
cành cây này đã bị uốn cong xuống?
- Này Kassapa, trường hợp này là có vải paṃsukūla đã phát sanh đến ta. Sau đó, ta đây
đã khởi ý điều này: “Ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên
Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã dùng tay đào thành cái hồ
nước rồi nói với ta điều này: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy giặt vải paṃsukūla ở đây.” Chính cái hồ này đã được đào
bằng tay bởi hạng không phải là người. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta
có thể nhồi vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng
tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã mang lại tảng đá lớn: “Bạch ngài,
xin đức Thế Tôn hãy nhồi vải paṃsukūla ở đây.” Chính hòn đá này đã được đem lại bởi hạng không phải
là người. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta có thể nắm vào vật gì và bước
lên?” Khi ấy, vị thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm
của ta nên đã uốn cong cành cây xuống: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nắm vào
đây và bước lên.” Chính cây Kakudha này là vật để tay nắm vào. Sau đó, ta đây
đã khởi ý điều này: “Ta có thể phơi khô vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của
chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã mang lại tảng
đá lớn: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.” Chính hòn đá này đã được đem
lại bởi hạng không phải là người.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị chúa của chư thiên
Sakka còn phải phục vụ, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta
đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
[45] Những điều kỳ diệu khác
[45] Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
- Này Kassapa, ngươi hãy đi rồi ta theo sau.
Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, ngài đã hái trái
cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa[16] được biết tiếng, rồi đã đi đến
trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã nhìn thấy đức
Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Này vị đại sa-môn, ngài đã đi đến bằng con đường nào? Tôi đã ra
đi trước ngài, vậy mà ngài đây đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.
- Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi, ta đã
hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đã đi
đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, trái cây Jambu này đạt được màu sắc,
đạt được hương thơm, đạt được mùi vị, nếu ngươi thích thì hãy ăn đi.
- Này vị đại sa-môn, thôi đi. Chính ngài đã mang nó lại thì chính
ngài hãy ăn nó.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì sau khi bảo ta đi, vị ấy
đã hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đi
đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống
như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc
Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến
gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
- Này Kassapa, ngươi hãy đi rồi ta theo sau.
Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, ngài đã hái trái
xoài không xa cây Jambu lắm, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, ...(như
trên)... trái Āmalakī không xa cây Jambu lắm, ...(như trên)... trái Harītakī
không xa cây Jambu lắm, ...(như trên)... đã đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông
hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện
tóc Uruvelakassapa đã nhìn thấy đức Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi
nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, ngài đã đi đến bằng con đường nào? Tôi đã ra
đi trước ngài vậy mà ngài đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.
- Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi ta đã
đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và ngồi
ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, bông hoa của cây san hô này đạt được màu sắc, đạt
được hương thơm, nếu ngươi thích thì hãy lấy đi.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì sau khi bảo ta đi, vị ấy
đã đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và
ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[46] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm
sóc các ngọn lửa không thể chẻ nhỏ các thanh củi được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện
tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại
sa-môn nên chúng ta không thể nào chẻ nhỏ các thanh củi được!” Khi ấy, đức Thế
Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, hãy làm các thanh củi được chẻ nhỏ.
- Này vị đại sa-môn, hãy làm các thanh củi được chẻ nhỏ.
Ngay lập tức, năm trăm thanh củi đã được chẻ nhỏ. Khi ấy, đạo sĩ
bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần
lực, có đại oai lực bởi vì các thanh củi đã được chẻ nhỏ, nhưng vị ấy không phải
là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[47] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm
sóc các ngọn lửa không thể đốt lên các ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện
tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại
sa-môn nên chúng ta không thể nào đốt lên các ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế
Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, hãy làm các ngọn lửa được đốt lên.
- Này vị đại sa-môn, hãy làm các ngọn lửa được đốt lên.
Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đã được đốt lên. Khi ấy, đạo sĩ bện
tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực,
có đại oai lực bởi vì các ngọn lửa đã được đốt lên, nhưng vị ấy không phải là vị
A-la-hán giống như ta đây.”
[48] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm
sóc các ngọn lửa không thể dập tắt các ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện
tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại
sa-môn nên chúng ta không thể nào dập tắt các ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế
Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, hãy làm các ngọn lửa được dập tắt.
- Này vị đại sa-môn, hãy làm các ngọn lửa được dập tắt.
Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đã được dập tắt. Khi ấy, đạo sĩ bện
tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực,
có đại oai lực bởi vì các ngọn lửa đã được dập tắt, nhưng vị ấy không phải là vị
A-la-hán giống như ta đây.”
[49] Vào lúc bấy giờ, trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông
lạnh lẽo vào những lúc tuyết rơi, các vị đạo sĩ bện tóc ấy hụp xuống và trồi
lên trong giòng sông Nerañjarāđã rồi lại thực hiện những hành động trồi lên hụp
xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã làm hiện ra các chảo lửa có số lượng năm trăm ở tại
chỗ các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã lội lên và sưởi ấm.
Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn
là do năng lực thần thông của vị đại sa-môn cho nên các chảo lửa này đã được hiện
ra.”
Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị
đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy còn làm hiện
ra các chảo lửa nhiều đến mức này, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống
như ta đây.”
[50] Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa đã đổ mưa tạo
thành trận lũ lụt lớn. Trong khu vực nào đức Thế Tôn cư ngụ thì nước không tràn
đến khu vực ấy. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên đẩy nước
ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi?”
Sau đó, đức Thế Tôn đã đẩy nước ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa
trên mặt đất được phủ đầy bụi. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa (nghĩ rằng):
“Chỉ mong sao vị đại sa-môn không bị nước cuốn trôi đi!” rồi đã cùng nhiều vị đạo
sĩ bện tóc đi thuyền đến khu vực đức Thế Tôn cư ngụ. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa
đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ
đầy bụi sau khi đã đẩy nước ra xung quanh, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế
Tôn điều này:
- Này vị đại sa-môn, ngài có ở đây không?
- Này Kassapa, có ta đây.
Rồi đức Thế Tôn đã bay lên không trung và hạ xuống đứng trên chiếc
thuyền. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại
sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì nước không cuốn trôi đi,
nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[51] Sự xuất gia của
Uruvelakassapa, Nadīkassapa, Gayākassapa
[51] Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Đã lâu ngay, gã khờ dại này chỉ khởi ý rằng: ‘Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.’ Hay là ta nên làm cho vị đạo sĩ bện tóc này phải nao núng? ”
Sau đó, đức Thế Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa
điều này:
- Này Kassapa, ngươi chẳng phải là A-la-hán và cũng chẳng đạt được
con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Ngay cả đường lối thực hành để ngươi có thể
trở thành A-la-hán hoặc đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán ngươi cũng
không có.
Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã quỳ xuống đê đầu ở
hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế
Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?
- Này Kassapa, ngươi là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng
nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Ngươi hãy thông báo
đến các vị ấy và các vị ấy sẽ làm theo như điều các vị suy nghĩ.
Sau đó, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp các đạo sĩ
bện tóc ấy, sau khi đến đã nói với các đạo sĩ bện tóc ấy điều này:
- Này các ông, ta muốn thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn,
các ông hãy làm theo như điều các ông suy nghĩ.
- Ngài ơi, chúng tôi có niềm tin với vị đại sa-môn đã lâu nay. Nếu
ngài thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn, hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực
hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn.
Sau đó, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước
các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã
nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức
Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy
thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[52] Đạo sĩ tóc bện Nadīkassapa đã nhìn thấy giòng nước đang cuốn
trôi đi các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa. Sau khi
nhìn thấy, vị ấy đã khởi ý điều này: “Chớ có việc gì nguy hiểm đã xảy ra cho
anh trai của ta!” rồi đã phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hãy đi và
tìm hiểu xem anh trai của ta thế nào!” còn bản thân cùng với ba trăm đạo sĩ bện
tóc đã đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đại đức
Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?
- Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.
Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước các
chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức Thế
Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với
đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức
Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy
thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[53] Đạo sĩ tóc bện Gayākassapa đã nhìn thấy giòng nước đang cuốn
trôi đi các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa. Sau khi
nhìn thấy, vị ấy đã khởi ý điều này: “Chớ có việc gì nguy hiểm đã xảy ra cho
các anh trai của ta!” rồi đã phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hãy đi
và tìm hiểu xem các anh trai của ta thế nào!” còn bản thân cùng với hai trăm đạo
sĩ bện tóc đã đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đại đức
Uruvelakassapa điều này:
- Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?
- Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.
Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước các
chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức Thế
Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với
đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức
Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[54] Do nguyện lực của đức Thế Tôn, năm trăm thanh củi không chẻ
ra được đã được chẻ ra, các ngọn lửa không đốt lên được đã được đốt lên, không
dập tắt được đã được dập tắt, năm trăm chảo lửa đã được làm cho hiện ra. Theo
cách thức ấy, có được ba ngàn năm trăm điều kỳ diệu.
[55] Bài kinh "Bị Cháy Rực"
[55] Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía đỉnh Gayā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây. Tại nơi đó ở Gayā, đức Thế Tôn ngự tại đỉnh Gayā cùng với một ngàn vị tỳ khưu. Tại đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, tất cả đều bị cháy rực. Và này các tỳ khưu,
cái gì là tất cả đều bị cháy rực? Này các tỳ khưu, mắt bị cháy rực, các sắc bị
cháy rực, sự nhận thức của mắt bị cháy rực, sự tiếp xúc của mắt bị cháy rực, tức
là sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc
không khổ không lạc cũng đều bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều gì? Ta nói rằng:
“Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi
già và chết, bởi buồn rầu, bởi ta thán, bởi khổ đau, bởi bất mãn, bởi thất vọng.”
Tai bị cháy rực, các âm thanh bị cháy rực, ...(như trên)... Mũi bị cháy rực,
các mùi bị cháy rực, ...(như trên)... Lưỡi bị cháy rực, các vị nếm bị cháy rực,
...(như trên)... Thân bị cháy rực, các sự xúc chạm bị cháy rực, ...(như
trên)... Ý bị cháy rực, các đối tượng của ý (dhammā) bị cháy rực, sự nhận thức
của ý bị cháy rực, sự tiếp xúc của ý bị cháy rực, tức là sự cảm thọ được sanh
lên do duyên tiếp xúc của ý là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc cũng đều
bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều gì? Ta nói rằng: “Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi
lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già và chết, bởi buồn rầu, bởi
ta thán, bởi khổ đau, bởi bất mãn, bởi thất vọng.” Này các tỳ khưu, trong khi
thấy như thế vị Thánh đệ tử có học hỏi không còn hứng thú đến mắt, không còn hứng
thú đến các sắc, không còn hứng thú đến sự nhận thức của mắt, không còn hứng
thú đến sự tiếp xúc của mắt, tức là không còn hứng thú đến sự cảm thọ được sanh
lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc,
không còn hứng thú đến tai, không còn hứng thú đến các âm thanh, ...(như
trên)..., không còn hứng thú đến mũi, không còn hứng thú đến các mùi, ...(như
trên)..., không còn hứng thú đến lưỡi, không còn hứng thú đến các vị nếm,
...(như trên)..., không còn hứng thú đến thân, không còn hứng thú đến các sự
xúc chạm, ...(như trên)..., không còn hứng thú đến ý, không còn hứng thú đến
các đối tượng của ý, không còn hứng thú đến sự nhận thức của ý, không còn hứng
thú đến sự tiếp xúc của ý, tức là không còn hứng thú đến sự cảm thọ được sanh
lên do duyên tiếp xúc của ý là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc; khi
đã không còn hứng thú, vị ấy không còn say đắm; do không còn say đắm vị ấy được
giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đã được giải thoát.”
Vị ấy biết được rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm
đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.” Và trong
khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đã không
còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Hết phần giảng về “Bị Cháy Rực.”
Hết Tụng phẩm 3 “Sự Kỳ Diệu ở
Uruvelā”
[1] Bản dịch tiếng Anh của
Rhys Davids and Hermann Oldenberg dẫn chứng tài liệu và giải thích rằng: 1. Các
người chăn dê dùng bóng mát của cây si (nigrodha) để nghỉ ngơi nên được gọi là
cây si của những người chăn dê. 2. Cây si đã được một đứa bé chăn dê trồng
trong thời gian Bồ-tát Siddhattha hành khổ hạnh sáu năm.
[2] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng đức Phật đã chú nguyện thành một bình bát mới từ bốn bình bát bằng
đá ấy.
[3] Chỉ tuyên bố quy y đức Thế
Tôn và quy y Giáo Pháp vì Tăng Bảo chưa được hình thành.
[4] Apparajakkha =
appa–raja–akkha = mắt có ít bụi.
[5] Phần trong ngoặc đơn cho đến
hết phần [8] ở Tam Tạng của Thái Lan được ghi vào phần chú thích ở cuối trang.
[6] Đức Thế Tôn đề cập đến sự
phục vụ của năm vị này trong thời gian Ngài hành khổ hạnh sáu năm. Điểm cần lưu
ý là đức Thế Tôn dùng từ “bhikkhu” dịch là “tỳ khưu” để gọi năm vị này dầu các
vị chưa trở thành đệ tử và chưa tu tập theo Giáo Pháp của Ngài (Chú thích của
người dịch).
[7] Nói cho gọn hơn là Bát
Chánh Đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh cần, chánh niệm, chánh định.
[8] “Aññākoṇḍañña” = Aññā + koṇḍañña nghĩa là Koṇḍañña đã hiểu. Aññā được trích từ lời nói của đức Phật là:
“Aññāsi vata bho Koṇḍañño, aññāsi vata bho Koṇḍañño” rồi ghép vào phía trước tên Koṇḍañña.
[9] Khoái lạc sanh lên do năm
giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân.
[10] ... bãi tha ma đạt được
trong tầm tay (dịch sát từ).
[11] Lúc ấy trên thế gian này đã có sáu vị tỳ khưu A-la-hán đại diện cho Tăng Bảo. Và người gia chủ này quy Tam Bảo vì đọc ba câu là: “Quy y đức Thế Tôn, Quy y Giáo Pháp, và Quy y Hội chúng tỳ khưu,” không như hai người thương buôn trước đây chỉ quy y Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp Bảo (chú thích của người dịch).
[12] Tăng (trong chữ Tăng-già)
được ghi âm từ chữ “saṅgha” có ý nghĩa thông thường
là hội chúng, tập thể, v.v... và được thiêng liêng hóa khi đề cập đến ba ngôi
báu Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo). Điều cần lưu ý ở đây là từ saṅgha cũng được dùng cho tỳ khưu ni (bhikkhunīsaṅgha = hội chúng tỳ khưu ni, Tăng tỳ khưu ni; tương tợ như ở
bhikkhusaṅgha = hội chúng tỳ khưu, Tăng
tỳ khưu). Tuy nhiên, hiện nay có khuynh hướng dùng chữ “Tăng” chỉ dành riêng
cho phái Nam ví dụ như: “Tứ chúng gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam, Tín Nữ”.hoặc
“Kính bạch chư đại đức Tăng Ni,” hoặc bình dân hơn như “ông Tăng bà Ni,” v.v...
Chữ “Tăng” này chỉ tương đương với từ “bhikkhu = tỳ khưu” chứ không phải là “saṅgha” như ở trên.
[13] vaseyyāma: ngôi thứ nhất
số nhiều.
[14] Ngài Buddhaghosa cho biết
các bài kệ như vầy được lưu truyền về sau này.
[15] Chủ yếu là vải quấn thây
người chết được đem bỏ ở bãi tha ma hoặc là vải nhặt ở các đống rác (chú thích
của người dịch). Ở các nơi khác, chúng tôi dịch là “vải dơ bị quăng bỏ.”
[16] Jambudīpa, dịch là đảo
Jambu, tức là bán đảo Ấn Độ (chú thích của người dịch).
Xem Tụng Phẩm 4 - Quay Về Mục Lục Chương 1 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments