Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 2
06. Chương Sàng Tọa (Senāsanakkhandhakaṃ)
2. Tụng phẩm thứ nhì
[241] Câu chuyện gia chủ Anāthapiṇḍika: Nghe danh đức Phật
[246] Câu chuyện dạ xoa Sīvaka. Bài kệ của dạ xoa Sīvaka
[250] Thuyết Pháp theo thứ lớp. Pháp nhãn của Anāthapiṇḍika
[255] Thỉnh đức Phật an cư (mùa mưa) ở Sāvatthi. Việc xây dựng
Jetavana
[258] Việc xây dựng công trình mới
[260] Chuyện giành chỗ trú xá
[261] Chỗ ngồi tốt nhất. Nước uống tốt nhất. Vật thực tốt nhất
[262] Câu chuyện chim đa đa, khỉ, và voi
[263] Bài kệ về sự kính trọng
[264] Mười hạng không nên được đảnh lễ. Ba hạng nên được đảnh lễ
[267] Các chỗ ngồi cao và rộng đã được sắp xếp bởi gia chủ
[269] Dâng cúng Jetavana. Bài kệ về sự dâng cúng trú xá
[272] Sự bảo đứng dậy khi chưa ăn xong. Sự xâm chiếm chỗ nằm ngồi
[276] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Việc lôi ra khỏi
trú xá
[277] Chỉ định vị phân phối sàng tọa. Cách thức phân phối sàng tọa
[241] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Anāthapiṇḍika có người vợ là em gái của nhà đại phú ở
thành Rājagaha. Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến thành Rājagaha vì công việc cần
làm nào đó.
[242] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú thành Rājagaha đã thỉnh mời hội
chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày hôm sau. Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha
đã sai bảo đám tôi tớ và các người làm công rằng:
- Này các người, chính vì việc ấy các người phải thức dậy thật sớm,
nấu cháo, nấu thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị các món ăn ngon.
[243] Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã khởi ý điều này: “Trước đây mỗi khi
ta đến, gia chủ này bỏ hết mọi công việc và đã trò chuyện với mình ta thôi. Sao
hôm nay ông ta có vẻ khẩn trương đã sai bảo đám tôi tớ và các người làm công rằng:
‘Này các người, chính vì việc ấy các người phải thức dậy thật sớm, nấu cháo, nấu
thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị các món ăn ngon.’ Không lẽ vào ngày
mai gia chủ này có đám rước dâu, hay là có đám đưa dâu, hay là sắp xếp cho buổi
đại lễ cúng tế, hay là có mời thỉnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha cùng với
đội quân binh?”
[244] Khi ấy, sau khi sai bảo đám tôi tớ và các người làm công
xong, nhà đại phú thành Rājagaha đã đi đến gặp gia chủ Anāthapiṇḍika, sau khi đến đã chào hỏi gia chủ
Anāthapiṇḍika rồi ngồi xuống ở một bên. Gia chủ
Anāthapiṇḍika đã nói với nhà đại phú thành Rājagaha
đang ngồi một bên điều này:
- Này gia chủ, trước đây mỗi khi ta đến, ông bỏ hết mọi công việc
và đã trò chuyện với mình ta thôi. Sao hôm nay ông có vẻ khẩn trương đã sai bảo
đám tôi tớ và các người làm công rằng: “Này các người, chính vì việc ấy các người
phải thức dậy thật sớm, nấu cháo, nấu thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị
các món ăn ngon.” Này gia chủ, không lẽ vào ngày mai ông có đám rước dâu, hay
là có đám đưa dâu, hay là sắp xếp cho buổi đại lễ cúng tế, hay là có mời thỉnh
đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha cùng với đội quân binh?
- Này gia chủ, không phải tôi có đám rước dâu, cũng không có đám
đưa dâu, cũng không có mời thỉnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha cùng với đội
quân binh, nhưng mà tôi sắp xếp cho buổi đại lễ cúng dường vào ngày mai. Hội
chúng có đức Phật đứng đầu đã được thỉnh mời.
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: “Đức Phật”?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: “Đức Phật.”
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: “Đức Phật”?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: “Đức Phật.”
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: “Đức Phật”?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: “Đức Phật.”
- Này gia chủ, cái âm này thật khó được nghe ở thế gian, đó là từ:
“Đức Phật.” Này gia chủ, vào giờ này ta có thể đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy
là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác không vậy?
- Này gia chủ, không phải lúc rồi; giờ này không thể đi đến để diện
kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đâu. Để đến sáng sớm ngày
mai, dượng sẽ đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác vậy.
[245] Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika (nghĩ rằng): “Sáng sớm ngày mai, ta sẽ
đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác vậy” rồi đã
nằm xuống với niệm tưởng về đức Phật. Ông đã thức giấc trong đêm ba lần, nghĩ rằng
trời đã sáng. Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến cửa thành dẫn đến khu rừng
Sīta. Các phi nhân đã mở cửa thành. Khi ấy, ánh sáng đã biến mất, bóng tối đã
xuất hiện. Nỗi sợ hãi, run rẩy, lông tóc dựng đứng đã sanh khởi đến gia chủ
Anāthapiṇḍika khi đang đi ra khỏi thành, chính vì thế
đã có ý muốn quay trở lui.
[246] Khi ấy, dạ xoa Sīvaka không có hiện hình đã nói lời rằng:
- Trăm voi( và) trăm ngựa,
trăm xe kéo bởi lừa,
trăm ngàn cô thiếu nữ
điểm trang ngọc, hoa tai,
mười sáu lần như thế
không bằng một bước đi.
Này gia chủ hãy bước tới, này gia chủ hãy bước tới. Việc bước tới
thì tốt đẹp cho người, không có việc quay lui.
[247] Khi ấy, bóng tối đã biến mất và ánh sáng đã hiện ra. Việc
đã sanh khởi cho gia chủ Anāthapiṇḍika là nỗi sợ hãi, run rẩy, lông tóc dựng đứng,
việc ấy đã được lắng xuống.
Đến lần thứ nhì, …như trên…
Đến lần thứ ba, ánh sáng đã biến mất, bóng tối đã xuất hiện. Nỗi
sợ hãi, run rẩy, lông tóc dựng đứng đã sanh khởi đến gia chủ Anāthapiṇḍika, chính vì thế đã có ý muốn quay trở lui.
Đến lần thứ ba, dạ xoa Sīvaka không có hiện hình đã nói lời rằng:
- Trăm voi( và) trăm ngựa,
trăm xe kéo bởi lừa,
trăm ngàn cô thiếu nữ
điểm trang ngọc, hoa tai,
mười sáu lần như thế
không bằng một bước đi.
Này gia chủ hãy bước tới, này gia chủ hãy bước tới. Việc bước tới
thì tốt đẹp cho người, không có việc quay lui.
Đến lần thứ ba, bóng tối đã biến mất và ánh sáng đã hiện ra. Việc
đã sanh khởi cho gia chủ Anāthapiṇḍika là nỗi sợ hãi, run rẩy, lông tóc dựng đứng,
việc ấy đã được lắng xuống. Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến khu rừng Sīta.
[248] Vào lúc bấy giờ, sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm, đức
Thế Tôn đi kinh hành ở ngoài trời. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy gia chủ Anāthapiṇḍika ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn
thấy đức Thế Tôn đã rời đường kinh hành đi đến ngồi ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn.
Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với gia chủ Anāthapiṇḍika điều này:
- Này Sudatta, hãy đi đến.
Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn gọi ta bằng
tên” nên đã mừng rỡ, phấn chấn đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống
đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, chắc hẳn rằng đức Thế Tôn đã nghỉ ngơi được thoải
mái?
[249]
- Đúng thế, kẻ Phạm hạnh
đã chứng ngộ Niết Bàn
luôn nghỉ ngơi thoải mái.
Người không vấy tình dục
bình thản, không chấp thủ,
khi đoạn lìa các dục
vị ấy điều phục được
các nỗi khổ trong tâm,
tĩnh lặng, nằm thoải mái
tâm chứng đạt Niết Bàn.
[250] Sau đó, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến gia chủ
Anāthapiṇḍika. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về
bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai
hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của
gia chủ Anāthapiṇḍika đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng,
tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được Chư Phật khai mở là: Khổ,
Tập, Diệt, Đạo.[4] Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu
một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm
bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến gia chủ Anāthapiṇḍika: “Điều gì có bản tánh được sanh lên,
toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
[251] Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã
hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt
hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ
duyên của người khác, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch
ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che
kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng):
“Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế Pháp đã
được đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y
đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con
là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức
Thế Tôn và hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ
Anāthapiṇḍika hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn
nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
[252] Nhà đại phú thành Rājagaha đã nghe rằng: “Nghe nói gia chủ
Anāthapiṇḍika đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng
đầu vào ngày mai.” Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha đã nói với gia chủ
Anāthapiṇḍika điều này:
- Này gia chủ, nghe nói dượng đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật
đứng đầu vào ngày mai và dượng lại là khách vãng lai. Này gia chủ, tôi cho dượng
tài chánh; nhờ đó dượng có thể thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức
Phật đứng đầu.
- Này gia chủ, tôi có đủ tài chánh; với số tài chánh ấy tôi sẽ thực
hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu .
[253] Vị thị trưởng thành Rājagaha đã nghe rằng: “Nghe nói gia chủ
Anāthapiṇḍika đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng
đầu vào ngày mai.” Khi ấy, vị thị trưởng thành Rājagaha đã nói với gia chủ
Anāthapiṇḍika điều này:
- Này gia chủ, nghe nói ông đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng
đầu vào ngày mai và ông lại là khách vãng lai. Này gia chủ, ta sẽ cho ông tài chánh;
nhờ đó ông có thể thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng
đầu.
- Thưa ngài, tôi có đủ tài chánh; với số tài chánh ấy tôi sẽ thực
hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
[254] Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nghe rằng: “Nghe nói
gia chủ Anāthapiṇḍika đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai.”
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với gia chủ Anāthapiṇḍika điều này:
- Này gia chủ, nghe nói ngươi đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật
đứng đầu vào ngày mai và ngươi lại là khách vãng lai. Này gia chủ, trẫm sẽ giúp
cho ngươi tài chánh; nhờ đó ngươi có thể thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội
chúng có đức Phật đứng đầu.
- Tâu bệ hạ, thần có đủ tài chánh; với số tài chánh ấy thần sẽ thực
hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
[255] Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Anāthapiṇḍika đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng
hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của nhà đại phú thành Rājagaha rồi cho thông
báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư
gia của nhà đại phú thành Rājagaha, sau khi đến đã ngồi xuống chỗ ngồi được sắp
đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, gia chủ
Anāthapiṇḍika đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống
một bên, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về việc an cư mùa mưa tại
thành Sāvatthi cùng với hội chúng tỳ khưu.
- Này gia chủ, các đấng Như Lai chỉ thỏa thích ở trú xứ thanh vắng.
- Bạch Thế Tôn, con đã biết rõ. Bạch Thiện Thệ, con đã biết rõ.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho gia chủ Anāthapiṇḍika bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi.
[256] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Anāthapiṇḍika có nhiều bạn bè, có nhiều cộng sự, có lời
nói uy tín. Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở
thành Rājagaha đã ra đi trở về thành Sāvatthi. Sau đó, trên đường đi gia chủ
Anāthapiṇḍika đã bảo với dân chúng rằng:
- Quý vị ơi, hãy xây dựng các tu viện, hãy cho thiết lập các trú
xá, hãy chuẩn bị các vật cúng dường. Giờ đây, đức Phật đã xuất hiện ở trên đời.
Và đức Thế Tôn ấy được tôi thỉnh mời sẽ đi đến bằng con đường này.
Khi ấy, đám người ấy được cổ vũ bởi gia chủ Anāthapiṇḍika đã xây dựng các tu viện, đã cho thiết lập
các trú xá, và đã chuẩn bị các vật cúng dường.
Sau đó, khi đã về đến thành Sāvatthi gia chủ Anāthapiṇḍika đã xem xét quanh thành Sāvatthi (nghĩ rằng):
“Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc
lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến
khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều
gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh.” Gia chủ Anāthapiṇḍika đã nhìn thấy khu vườn của vương tử Jeta
là không xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân
chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng
động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh,
sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp vương tử Jeta, sau khi đến đã nói với vương tử
Jeta điều này:
- Thưa công tử, hãy cho tôi khu vườn để xây dựng tu viện.
- Này gia chủ, khu vườn không thể cho mặc dù với việc trải ra mười
triệu (koṭisantharena).
- Thưa công tử, khu vườn đã được bán.
- Này gia chủ, khu vườn chưa được bán.
Họ đã hỏi các viên đại thần lo việc xử án rằng:
- (Khu vườn) đã được bán hay chưa được bán?
Các viên quan đại thần đã nói như vầy:
- Thưa công tử, bởi vì giá cả đã được ngài quy định nên khu vườn
đã được bán.
Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã bảo chở tiền vàng lại bằng các xe kéo
và cho trải ra mười triệu tiền vàng ở Jetavana (khu rừng của Jeta). Tiền vàng
chở lại một lần ấy còn thiếu cho khoảng trống nhỏ xung quanh cổng ra vào. Khi ấy,
gia chủ Anāthapiṇḍika đã bảo dân chúng rằng:
- Này các người, hãy đi, hãy đem tiền vàng lại. Chúng ta sẽ trải
lên khoảng trống này.
Khi ấy, vương tử Jeta đã khởi ý điều này: “Theo như cách vị gia
chủ này hy sinh nhiều tiền vàng đến như vầy thì việc này sẽ không là tầm thường
đâu” nên đã nói với gia chủ Anāthapiṇḍika điều này:
- Này gia chủ, được rồi, ông không cần phải trải lên khoảng trống
này nữa. Hãy cho ta khoảng trống đó. Việc bố thí ấy sẽ là của ta.
Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika (nghĩ rằng): “Vương tử Jeta này thông
minh, nhiều người biết tiếng, niềm tin trong Pháp và Luật này của những người
có danh tiếng như thế quả là điều kỳ diệu lớn lao!” nên đã nhường khoảng trống
đó cho vương tử Jeta. Sau đó, vương tử Jeta đã cho dựng lên cổng ra vào ở khoảng
trống đó.
Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã cho xây dựng ở Jetavana các trú xá,
đã cho xây dựng các căn phòng, đã cho xây dựng các cổng ra vào, đã cho xây dựng
các phòng hội họp, đã cho xây dựng các nhà để đốt lửa, đã cho xây dựng các nhà
làm thành được phép, đã cho xây dựng các nhà vệ sinh, đã cho xây dựng các đường
kinh hành, đã cho xây dựng các gian nhà ở các đường kinh hành, đã cho xây dựng
các giếng nước, đã cho xây dựng các gian nhà ở các giếng nước, đã cho xây dựng
các phòng tắm hơi, đã cho xây dựng các gian nhà ở các phòng tắm hơi, đã cho xây
dựng các hồ trữ nước, đã cho xây dựng các mái che.
[257] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như
ý thích đã lên đường đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành ngài đã
ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó ở Vesālī, đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana, giảng
đường Kūṭāgāra.
[258] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thực hiện công trình mới một
cách cẩn thận. Ngay cả các tỳ khưu phụ trách công trình mới cũng được phục vụ một
cách chu đáo với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.
[259] Khi ấy, có người thợ may nghèo nọ đã khởi ý điều này: “Theo
như cách những người này thực hiện công trình mới một cách cẩn thận như vầy thì
việc này sẽ không là tầm thường đâu; hay là ta cũng nên thực hiện công trình mới
vậy?” Sau đó, người thợ may nghèo ấy đã đích thân trộn hồ, gắn liền các viên gạch,
rồi xây lên các bức tường. Các viên gạch được ông ta gắn liền không khéo léo
nên bức tường bị cong rồi đổ xuống.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, người thợ may nghèo ấy đã đích thân trộn hồ, gắn
liền các viên gạch, rồi xây lên các bức tường. Các viên gạch được ông ta gắn liền
không khéo léo nên bức tường bị cong rồi đổ xuống. Khi ấy, người thợ may nghèo ấy
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Người ta cúng dường vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ,
và thuốc men chữa bệnh đến các sa-môn Thích tử này nên các vị chỉ bảo, hướng dẫn
họ, và phụ trách công trình mới của họ. Trái lại, tôi thì nghèo nên không ai chỉ
bảo, hướng dẫn tôi, hay phụ trách công trình mới (của tôi).
Các tỳ khưu đã nghe được người thợ may nghèo ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép giao công trình mới. Này các tỳ
khưu, vị tỳ khưu là vị phụ trách công trình mới sẽ thể hiện sự tích cực (suy
nghĩ rằng): “Có cách gì để trú xá có thể đạt đến việc hoàn thành nhanh chóng?”
và sẽ sửa chữa chỗ bị đổ vỡ và hư hỏng. Và này các tỳ khưu, nên giao như vầy:
Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được
thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giao công trình mới là trú xá của gia chủ
tên (như vầy) đến vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng giao
công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) đến vị tỳ khưu tên (như vầy).
Đại đức nào đồng ý việc giao công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy)
đến vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) đã được giao đến
vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi
ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[260] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Vesālī theo như ý
thích đã lên đường đi về phía thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đệ tử
của các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vượt lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu
rồi giành phần các trú xá, giành phần các chỗ nằm (nói rằng): “Chỗ này sẽ dành
cho các thầy tế độ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho các thầy dạy học của chúng
ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta.”
Khi ấy, đại đức Sāriputta đi theo phía sau hội chúng có đức Phật
dẫn đầu,[5] vì các trú xá đã bị giành phần và các chỗ nằm đã bị giành phần,
trong lúc không có chỗ nằm đã ngồi xuống ở gốc cây nọ. Sau đó vào canh cuối của
đêm, đức Thế Tôn thức dậy đã đằng hắng. Đại đức Sāriputta cũng đã đằng hắng.
- Ai ở đàng kia vậy?
- Bạch Thế Tôn, con là Sāriputta.
- Này Sāriputta, vì sao ngươi lại ngồi ở đây?
Khi ấy, đại đức Sāriputta đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[261] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đệ tử của các tỳ khưu
nhóm Lục Sư đi vượt lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi giành phần
các trú xá, giành phần các chỗ nằm (nói rằng): “Chỗ này sẽ dành cho các thầy tế
độ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho các thầy dạy học của chúng ta, chỗ này sẽ
dành cho chúng ta,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại đi vượt lên phía
trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi giành phần các trú xá, giành phần các
chỗ nằm (nói rằng): “Chỗ này sẽ dành cho các thầy tế độ của chúng ta, chỗ này sẽ
dành cho các thầy dạy học của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta.” Này các
tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như
trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi hỏi các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị nào xứng đáng chỗ ngồi tốt nhất, nước uống
tốt nhất, vật thực tốt nhất?
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia từ dòng dõi vua chúa vị ấy xứng
đáng chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia từ dòng dõi Bà-la-môn vị ấy xứng
đáng chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia từ dòng dõi gia chủ vị ấy xứng
đáng chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào chuyên về Kinh vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào rành rẽ về Luật ...(như trên)...
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là Pháp sư vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt nhất,
nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đạt sơ thiền vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đạt nhị thiền vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đạt tam thiền ...(như trên)...
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đạt tứ thiền vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt
nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Nhập Lưu (Sotāpanno) vị ấy xứng
đáng chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Nhất Lai (Sakadāgāmī) …(như trên)…
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Bất Lai (Anāgāmī) …(như trên)…
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc A-la-hán (Arahā) vị ấy xứng đáng chỗ
ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Tam Minh (Tevijjo) vị ấy xứng đáng
chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỳ khưu đã đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Lục Thông (Chaḷabhiñño) vị ấy xứng đáng chỗ ngồi tốt nhất,
nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
[262] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, trước đây ở sườn núi của Hy Mã Lạp Sơn có cây
đa cổ thụ. Có ba bạn hữu là con chim đa đa, con khỉ, và con long tượng đã sống
nương tựa vào cây ấy. Chúng đã sống không có sự kính trọng, không có sự phục
tùng, không có thái độ quan tâm lẫn nhau. Này các tỳ khưu, sau đó ba bạn hữu ấy
đã khởi ý điều này: “Này, chúng ta nên biết ai trong chúng ta là lớn nhất tính
theo sự sinh ra để chúng ta có thể tôn trọng, có thể kính nể, có thể quý mến,
có thể phục vụ vị ấy, và chúng ta có thể tồn tại trong sự giáo huấn của vị ấy.”
Này các tỷ kheo, khi ấy con chim đa đa và con khỉ đã hỏi con long tượng rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, khi tôi còn nhỏ tôi thường để cây đa này ở giữa hai
chân rồi bước qua, ngọn cây chạm vào bụng của tôi. Hai bạn à, đó là điều tôi nhớ
được về thời xa xưa.
Này các tỷ kheo, sau đó con chim đa đa và con long tượng đã hỏi con khỉ rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, khi tôi còn nhỏ tôi thường ngồi trên nền đất nhai đọt
non của cây đa này. Hai bạn à, đó là điều tôi nhớ được về thời xa xưa.
Này các tỷ kheo, sau đó con khỉ và con long tượng đã hỏi con chim đa đa rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, ở khu vực kia có cây đa cổ thụ. Tại đó, tôi đã ăn
trái cây rồi đại tiện ở chỗ này, cây ấy sanh ra cây đa này. Hai bạn à, như thế
tính theo sự sinh ra thì tôi là lớn nhất.
Này các tỳ khưu, sau đó con khỉ và con long tượng đã nói với con
chim đa đa điều này:
- Bạn à, bạn là lớn nhất tính theo sự sinh ra. Chúng tôi sẽ tôn
trọng, sẽ kính nể, sẽ quý mến, sẽ phục vụ bạn, và chúng tôi có thể sinh tồn
trong sự giáo huấn của bạn.
Này các tỳ khưu, sau đó con chim đa đa đã cho con khỉ và con long
tượng thọ trì năm giới, và bản thân nó cũng thọ trì và thực hành theo năm giới.
Chúng đã sống có sự kính trọng, có sự phục tùng, có thái độ quan tâm lẫn nhau,
đến khi hoại rã thân này chết đi, chúng đã sanh về chốn an vui là cõi trời. Này
các tỳ khưu, con chim đa đa ấy đã nổi danh là bậc hành Phạm hạnh.
[263]
Những người rành rẽ Pháp,
tôn kính bậc cao niên
kiếp này được khen ngợi
kiếp sau sanh về trời.
Này các tỳ khưu, ngay cả các chúng sanh là các con thú ấy còn
sinh sống có sự kính trọng, có sự phục tùng, và có thái độ quan tâm lẫn nhau.
Này các tỳ khưu, ở đây các ngươi hãy làm rạng rỡ việc các ngươi xuất gia làm
sa-môn trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, các ngươi nên sống có
sự kính trọng, có sự phục tùng, và có thái độ quan tâm lẫn nhau. Này các tỳ
khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như
trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy chào,
hành động chắp tay, hành động thích hợp, chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất,
vật thực tốt nhất tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, việc liên quan đến hội
chúng được tính theo thâm niên là điều không được xâm phạm; vị nào xâm phạm thì
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[264] Này các tỳ khưu, đây là mười hạng không nên được đảnh lễ: Vị
tu lên bực trên sau không nên được đảnh lễ bởi vị tu lên bậc trên trước, vị
chưa tu lên bậc trên không nên được đảnh lễ, vị thâm niên hơn thuộc nhóm cộng
trú khác nói sai Pháp không nên được đảnh lễ, phụ nữ không nên được đảnh lễ,
người vô căn không nên được đảnh lễ, vị thực hành hành phạt parivāsa không nên
được đảnh lễ, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên được đảnh lễ, vị
xứng đáng hành phạt mānatta không nên được đảnh lễ, vị thực hành hành phạt
mānatta không nên được đảnh lễ, vị xứng đáng sự giải tội không nên được đảnh lễ.
Này các tỳ khưu, đây là mười hạng không nên được đảnh lễ.
Này các tỳ khưu, đây là ba hạng nên được đảnh lễ: Vị tu lên bực
trên trước nên được đảnh lễ bởi vị tu lên bậc trên sau, vị thâm niên hơn thuộc
nhóm cộng trú khác nói đúng Pháp nên được đảnh lễ, này các tỳ khưu, trong thế
gian gồm có chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng
Chánh Đẳng Giác nên được đảnh lễ bởi các chúng sanh gồm có sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên, và nhân loại. Này các tỳ khưu, đây là ba trường hợp nên được đảnh lễ.
[265] Vào lúc bấy giờ, dân chúng chuẩn bị mái che, chuẩn bị thảm
trải, chuẩn bị chỗ trống dành riêng cho hội chúng. Các tỳ khưu đệ tử của các tỳ
khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Chính việc liên quan đến hội chúng mới được đức
Thế Tôn cho phép tính theo thâm niên, chứ không phải việc được làm để dành
riêng (cho hội chúng)” rồi đi vượt lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu
rồi giành phần các mái che, giành phần các thảm trải, giành phần các chỗ trống
(nói rằng): “Chỗ này sẽ dành cho các thầy tế độ của chúng ta, chỗ này sẽ dành
cho các thầy dạy học của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta.”
Khi ấy, đại đức Sāriputta đi theo phía sau hội chúng có đức Phật
dẫn đầu, vì các mái che đã bị giành phần, các thảm trải đã bị giành phần, các
chỗ trống đã bị giành phần, trong lúc không có chỗ trống đã ngồi xuống ở gốc
cây nọ. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn thức dậy đã đằng hắng. Đại đức
Sāriputta cũng đã đằng hắng.
- Ai ở đàng kia vậy?
- Bạch Thế Tôn, con là Sāriputta.
- Này Sāriputta, vì sao ngươi lại ngồi ở đây?
Khi ấy, đại đức Sāriputta đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[266] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đệ tử của các tỳ khưu
nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Chính việc liên quan đến hội chúng mới được đức Thế
Tôn cho phép tính theo thâm niên, chứ không phải việc được làm để dành riêng
(cho hội chúng)” rồi đi vượt lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu và
giành phần các mái che, giành phần các thảm trải, giành phần các chỗ trống (nói
rằng): “Chỗ này sẽ dành cho các thầy tế độ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho
các thầy dạy học của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ngay cả việc được làm dành riêng (cho hội
chúng) cũng được tính theo thâm niên là điều không được xâm phạm; vị nào xâm phạm
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[267] Vào lúc bấy giờ, dân chúng sắp xếp ở trong phòng ăn, ở
trong nhà các chỗ ngồi cao và các chỗ ngồi rộng như là ghế trường kỷ, ghế dựa dài, thảm lông, thảm nhiều màu, thảm
màu trắng, thảm thêu bông hoa, nệm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm
lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn
để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da báo, thảm da linh
dương, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu. Các tỳ khưu ngần ngại
không ngồi lên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trừ ra ba thứ là ghế trường kỷ, ghế dựa dài, nệm bông gòn (tūlikaṃ), ta cho phép ngồi lên chỗ đã được trưng
bày bởi gia chủ nhưng không được nằm lên.
[268] Vào lúc bấy giờ, dân chúng sắp xếp ở trong phòng ăn, ở
trong nhà loại giường và ghế độn bông gòn. Các tỳ khưu ngần ngại không ngồi
lên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi lên chỗ đã được trưng bày bởi
gia chủ nhưng không được nằm lên.
[269] Sau đó, đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đã ngự đến
thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana
(Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia
chủ Anāthapiṇḍika đã
nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời
bữa trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ
Anāthapiṇḍika hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn
nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
[270] Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Anāthapiṇḍika đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng
hạng loại cứng loại mềm rồi đã cho thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y cầm y bát đi đến tư
gia của gia chủ Anāthapiṇḍika, sau khi đến đã ngồi xuống chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với
hội chúng tỳ khưu. Sau đó, gia chủ Anāthapiṇḍika đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, gia chủ
Anāthapiṇḍika đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống
một bên, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, con tiến hành như thế nào về Jetavana?
- Này gia chủ, chính vì điều ấy ngươi hãy cho thiết lập Jetavana
dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai.
- Bạch ngài, xin vâng.
Rồi gia chủ Anāthapiṇḍika nghe theo đức Thế Tôn đã thiết lập
Jetavana dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai. Khi ấy, đức Thế Tôn
đã tùy hỷ với gia chủ Anāthapiṇḍika bằng những lời kệ này:
[271]
Chúng ngăn ngừa nóng lạnh
và các loài thú dữ,
các loài rắn, muỗi mòng,
luôn các cơn mưa lạnh (từ nơi ấy).
Cơn gió nóng dữ dội
sanh lên bị dội lại (từ nơi ấy).
Sự bố thí trú xá
đến hội chúng để hành
thiền định và minh sát
đem lại sự nương náu
đem lại sự an lạc
đã được chư Phật Đà
ngợi khen là tối thắng.
Vì thế người trí tuệ
thấy lợi ích cho mình
cho xây trú xá đẹp
để các bậc đa văn
có thể ngụ nơi ấy.
Nên cúng dường cơm nước
y áo, chỗ trú ngụ
đến các chân tu ấy
có tâm tư thanh tịnh.
Đến người, các vị thuyết
pháp xua mọi khổ đau
người thấy pháp đời này
không còn ô nhiễm nữa
và chứng ngộ Niết Bàn.
Sau đó, khi đã tùy hỷ với gia chủ Anāthapiṇḍika bằng những lời kệ này đức Thế Tôn đã rời
chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[272] Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của vị
quan đại thần nọ là đệ tử đạo lõa thể. Đại đức Upanananda con trai dòng Sākya
đi đến trễ và đã làm cho vị tỳ khưu ngồi kế cận phải đứng dậy khi bữa ăn chưa
chấm dứt. Nhà ăn đã bị xáo động. Khi ấy, vị quan đại thần ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử đi đến trễ lại còn làm cho vị tỳ
khưu ngồi kế cận phải đứng dậy khi bữa ăn chưa chấm dứt khiến nhà ăn đã bị xáo
động? Ngay cả khi được ngồi chỗ khác, không lẽ không thể thọ thực theo như nhu
cầu hay sao?
Các tỳ khưu đã nghe vị quan đại thần phàn nàn, phê phán, chê bai.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda đi đến trễ lại còn làm cho vị tỳ khưu
ngồi kế cận phải đứng dậy khi bữa ăn chưa chấm dứt khiến nhà ăn đã bị xáo động?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi đi đến trễ còn làm cho vị tỳ khưu
ngồi kế cận phải đứng dậy khi bữa ăn chưa chấm dứt khiến nhà ăn đã bị xáo động,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi đi đến trễ lại còn cho vị tỳ khưu
ngồi kế cận phải đứng dậy khi bữa ăn chưa chấm dứt khiến nhà ăn đã bị xáo động
vây? Này kẻ rồ dại, việc ấy không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi bữa ăn chưa chấm dứt không nên bảo vị tỳ
khưu kế cận đứng dậy; vị nào bảo đứng dậy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Nếu bảo đứng dậy, nên nói với vị
được yêu cầu (đứng dậy) rằng: “Hãy đi lấy nước đem lại.” Nếu việc ấy đạt được
như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được như vậy, (vị đang ăn)
nên nuốt xuống các hạt cơm một cách khéo léo rồi nhường lại chỗ ngồi cho vị tỳ
khưu thâm niên hơn. Này các tỳ khưu, nhưng ta không nói rằng: “Chỗ ngồi của vị
tỳ khưu thâm niên hơn có thể bị xâm phạm bởi bất cứ phương thức nào;” vị nào
xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[273] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo các tỳ khưu bị
bệnh phải đứng dậy. Các vị bị bệnh nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi không thể đứng dậy, chúng tôi bị bệnh.
- Chúng tôi sẽ làm cho các đại đức đứng dậy.
Rồi họ đã nắm lấy, lôi đứng dậy, và buông ra để cho các vị ấy đứng.
Các vị bị bệnh được buông ra bị té xuống. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bảo các vị bị bệnh phải đứng dậy, vị
nào bảo đứng dậy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[274] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (bảo rằng): “Chúng
tôi bị bệnh, không nên bảo chúng tôi đứng dậy” rồi chiếm chỗ nằm tốt nhất.
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhường chỗ nằm thích hợp cho vị bị
bệnh.
[275] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dùng mánh lới xâm
chiếm chỗ trú ngụ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên dùng mánh lới xâm chiếm chỗ trú ngụ;
vị nào xâm chiếm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[276] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sửa chữa ngôi
trú xá lớn nọ ở vùng lân cận (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ an cư mùa mưa ở chỗ
này.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa
ngôi trú xá, sau khi thấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư này sửa chữa ngôi
trú xá. Giờ chúng ta sẽ bảo họ tránh ra.
Một số vị đã nói như vầy:
- Này các đại đức, hãy chờ đợi trong lúc họ đang sửa chữa. Khi đã
được sửa chữa xong, chúng ta sẽ bảo họ tránh ra.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Mười
Bảy Sư điều này:
- Này các đại đức, hãy tránh ra. Trú xá thuộc về chúng tôi.
- Này các đại đức, sao lại không báo trước, chúng tôi có thể sửa
chữa cái khác?
- Này các đại đức, không phải trú xá thuộc về hội chúng hay sao?
- Này các đại đức, đúng vậy. Trú xá thuộc về hội chúng.
- Này các đại đức, hãy tránh ra. Trú xá thuộc về chúng tôi.
- Này các đại đức, trú xá thì lớn, các vị ở được, chúng tôi cũng
sẽ ở được.
- Này các đại đức, hãy tránh ra. Trú xá thuộc về chúng tôi.
Rồi (các tỳ khưu nhóm Lục Sư) nổi giận, bất bình nắm (các vị ấy) ở
cổ lôi kéo ra ngoài. Trong khi bị các vị kia lôi kéo ra ngoài, các vị ấy khóc
lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc?
- Thưa các đại đức, những tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất
bình rồi lôi kéo chúng tôi ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư này khi nổi giận, bất bình lại
lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư nổi giận, bất
bình rồi lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị nổi giận, bất bình không nên lôi kéo các tỳ
khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng; vị nào lôi kéo ra thì nên hành xử đúng
theo Pháp.[6] Này các tỳ khưu, ta cho phép phân phối chỗ trú ngụ.
[277] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Chỗ trú ngụ nên được
phân phối bởi vị nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị phân phối chỗ trú ngụ
là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích,
không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không
thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (chỗ trú ngụ) đã được phân phối hoặc
chưa được phân phối.
[278] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ
khưu cần được yêu cầu, sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ
khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị
phân phối chỗ trú ngụ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định
vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phối chỗ trú ngụ. Đại đức nào đồng ý việc
chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phối chỗ trú ngụ xin im lặng; vị
nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phối
chỗ trú ngụ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.”
[279] Khi ấy, các tỳ khưu là các vị phân phối chỗ trú ngụ đã khởi
ý điều này: “Chỗ trú ngụ nên được phân phối như thế nào?” Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trước tiên đếm số lượng tỳ khưu;
sau khi đếm số lượng tỳ khưu rồi đếm số lượng chỗ nằm; sau khi đếm số lượng chỗ
nằm thì phân phối theo chỗ nằm.
Trong khi phân phối theo chỗ nằm, các chỗ nằm đã được thừa ra.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phân phối theo trú xá.
Trong khi phân phối theo trú xá, các trú xá đã được thừa ra. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phân phối theo phòng ở.
Trong khi phân phối theo phòng ở, các phòng ở đã được thừa ra.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phân phối luôn cả phần còn lại.
Khi phần còn lại đã được nhận, có vị tỳ khưu khác đi đến, nếu (các vị) không sẵn
lòng thì không cần phải cho (na akāmā dātabbo).
[280] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu phân phối chỗ trú ngụ cho vị đứng
ở ngoài ranh giới (sīmā). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên phân phối sàng tọa cho vị đứng ở
ngoài ranh giới; vị nào phân phối thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[281] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi nhận chỗ trú ngụ rồi
chiếm giữ luôn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, sau khi nhận chỗ trú ngụ không nên chiếm giữ
luôn; vị nào chiếm giữ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép chiếm
giữ trong ba tháng của mùa mưa, mùa khác không được chiếm giữ.
[282] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu thời
điểm phân phối chỗ trú ngụ?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, đây là ba thời điểm phân phối chỗ trú ngụ: thời
điểm trước, thời điểm sau, thời điểm trung gian. Vào ngày kế ngày rằm của tháng
Āsāḷhā[7] là thời điểm trước nên được phân phối,
một tháng kế sau ngày rằm của tháng Āsāḷhā là thời điểm sau nên được phân phối, một
ngày sau lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) cho đến lần an cư mùa mưa kế là thời điểm trung gian
nên được phân phối. Này các tỳ khưu, đây là ba thời điểm phân phối chỗ trú ngụ.
Dứt tụng phẩm thứ nhì
Xem Tụng phẩm thứ ba - Xem tiếp Chương 7 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments