Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 06. Chương Sàng Tọa - Tụng phẩm thứ ba

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

06. Chương Sàng Tọa (Senāsanakkhandhaka)

3. Tụng phẩm thứ ba


[283] Câu chuyện về tỳ khưu Upananda chiếm giữ hai chỗ trú ngụ

[284] Sự ngợi khen về Luật. Giảng về việc ngồi, ghế ngồi

[291] Xử lý các vật dụng không được phép dùng

[292] Sự phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng, năm vật không thể phân tán

[293] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, năm vật không thể phân chia

[295] Câu chuyện về các tỳ khưu ở Āavī. Giảng về việc cho phép công trình mới

[309] Sử dụng đồ đạc của nơi này ở nơi khác. Việc di chuyển vật dụng

[312] Việc trao đổi vật dụng

[314] Vật chùi chân. Việc bước lên chỗ nằm ngồi với chân chưa rửa

[320] Cho phép ống nhổ. Bảo quản nền tường

[325] Các loại bữa ăn dâng đến hội chúng

[326] Chỉ định vị sắp xếp bữa ăn. Cách thức sắp xếp bữa ăn

[329] Chỉ định vị phân bố sàng tọa. Chỉ định vị giữ kho đồ đạc, v.v...

[331] Chỉ định vị phân chia vật linh tinh. Cách thức phân chia vật linh tinh

[334] Chỉ định các công việc khác. Chỉ định vị quản trị các sa di

[336] Bài kệ tóm lược

[283] Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya (Thích Ca) sau khi được phân phối chỗ trú ngụ ở thành Sāvatthi đã đi đến trú ngụ ở ngôi làng khác. Ngay cả ở nơi ấy, vị ấy đã được phân phối chỗ trú ngụ. Khi ấy, các tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Này các đại đức, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và bất hòa trong hội chúng. Nếu vị này sẽ an cư mùa mưa ở đây, chính tất cả chúng ta sẽ sống không được thoải mái; vậy chúng ta hãy hỏi vị ấy đi.” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:

- Này đại đức Upananda, không phải đại đức đã nhận chỗ trú ngụ ở thành Sāvatthi rồi hay sao?

- Này các đại đức, đúng vậy.

- Này đại đức Upananda, tại sao đại đức là một lại chiếm giữ hai?

- Này các đại đức, giờ tôi bỏ cái chỗ này, giữ lại cái chỗ kia.

Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya là một lại chiếm giữ hai?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…

- Này Upananda, nghe nói ngươi là một lại chiếm giữ hai, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi là một lại chiếm giữ hai? Này kẻ rồ dại, chỗ kia ngươi giữ lại, chỗ này ngươi bỏ; chỗ này ngươi giữ lại, chỗ kia ngươi bỏ. Này kẻ rồ dại, như thế, ở cả hai nơi đều bị khước từ. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, một vị không nên chiếm giữ hai (chỗ trú ngụ), vị nào chiếm giữ thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[284] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng về Luật (Vinaya) cho các tỳ khưu theo nhiều phương thức: Ngài ngợi khen Luật, ngợi khen sự nghiên cứu về Luật, ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác. Các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn thuyết giảng về Luật cho các tỳ khưu theo nhiều phương thức: Ngài ngợi khen Luật, ngợi khen sự nghiên cứu về Luật, ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy học tập thành thạo về Luật với đại đức Upāli.” Và các vị ấy gồm nhiều tỳ khưu trưởng lão, mới tu, và trung niên học tập thành thạo về Luật với đại đức Upāli. Vì tôn trọng các tỳ khưu trưởng lão, đại đức Upāli đứng để giảng giải. Vì tôn kính Giáo Pháp, các tỳ khưu trưởng lão cũng đứng để nghe giảng. Trong trường hợp ấy, chính các tỳ khưu trưởng lão lẫn đại đức Upāli đều bị mệt mỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu mới tu ngồi chỗ ngồi ngang bằng hoặc cao hơn trong khi giảng giải vì tôn kính Giáo Pháp; vị tỳ khưu trưởng lão ngồi chỗ ngồi ngang bằng hoặc thấp hơn trong khi nghe giảng vì tôn kính Giáo Pháp.

[285] Vào lúc bấy giờ, trong sự hiện diện của đại đức Upāli nhiều vị tỳ khưu đứng chờ đợi bài giảng bị mệt mỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi (chung) với những vị có đồng đẳng cấp.

[286] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Giới hạn đến đâu gọi là có đồng đẳng cấp?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi với vị (chênh lệch) khoảng cách ba năm (trở lại).

[287] Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu có đồng đẳng cấp đã ngồi xuống trên một cái giường và đã làm gãy cái giường, đã ngồi xuống trên một cái ghế và đã làm gãy cái ghế. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép giường đối với nhóm ba vị, ghế đối với nhóm ba vị.

Ngay cả nhóm ba vị ngồi xuống trên cái giường cũng đã làm gãy cái giường, ngồi xuống trên cái ghế cũng đã làm gãy cái ghế. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép giường đối với nhóm hai vị, ghế đối với nhóm hai vị.

[288] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại không ngồi xuống trên ghế dài cùng với các vị không đồng đẳng cấp. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi trên ghế dài cùng với những vị không đồng đẳng cấp ngoại trừ người vô căn, phụ nữ, người lưỡng căn.

[289] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vậy ghế dài tối thiểu (ngắn nhất) là bao nhiêu?” …(như trên)…

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ghế dài có chiều dài tối thiểu là đủ cho ba người.

[290] Vào lúc bấy giờ, bà Visākhā mẹ của Migāra có ý muốn cho xây dựng tòa nhà dài có mái hiên hình đầu voi (hatthinakhaka) nhằm sự lợi ích cho hội chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Công trình phụ nào của tòa nhà dài được đức Thế Tôn cho phép, công trình nào không được cho phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả công trình phụ của tòa nhà lớn.

[291] Vào lúc bấy giờ, bà nội của đức vua Pasenadi xứ Kosala từ trần. Khi bà ta từ trần, nhiều vật dụng không đúng phép đã phát sanh đến hội chúng như là: ghế cao, ghế nệm lông thú, thảm lông, thảm nhiều màu, thảm màu trắng, thảm thêu bông hoa, nệm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da báo, thảm da linh dương, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép sử dụng sau khi cắt ngắn các chân của ghế cao, (cho phép) sử dụng sau khi đã hủy đi lông ở ghế nệm lông thú, (cho phép) tháo gở nệm bông gòn để làm gối, (cho phép) dùng làm thảm lót trên nền đất các vật còn lại.

[292] Vào lúc bấy giờ, ở ngôi làng nọ không xa thành Sāvatthi, các tỳ khưu thường trú bị bận rộn trong khi sắp xếp sàng tọa cho các tỳ khưu vãng lai đi đến. Khi ấy, các tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Này các sư đệ, hiện nay chúng ta bị bận rộn trong khi chuẩn bị sàng tọa cho các tỳ khưu vãng lai đi đến. Này các sư đệ, vậy chúng ta hãy cho tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng đến một vị rồi chúng ta sẽ sử dụng đồ đạc của vị ấy.” Họ đã cho tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng đến một vị. Các tỳ khưu vãng lai đã nói với các tỳ khưu thường trú ấy điều này:

- Này các đại đức, hãy xếp đặt sàng tọa cho chúng tôi.

- Này các đại đức, sàng tọa thuộc về hội chúng không có, chúng tôi đã cho tất cả đến một vị.

- Này các đại đức, có phải các vị phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng?

- Này các đại đức, đúng vậy.

Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu lại phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng? Này các tỳ khưu, việc ấy không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, đây là năm vật không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả những vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Năm vật ấy là gì?

Tu viện (ārāmo) và khu đất của tu viện (ārāmavatthu); đây là vật thứ nhất không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Trú xá (vihāro) và khu đất của trú xá (vihāravatthu); đây là vật thứ hai không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Giường, ghế, nệm, gối; đây là vật thứ ba không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Chum bằng kim loại, vại bằng kim loại, hũ bằng kim loại, bình bằng kim loại, dao, rìu, búa, cuốc, xẻng; đây là vật thứ tư không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Dây thừng, tre, cỏ thô, cỏ tranh, cỏ dại, đất sét, vật làm bằng gỗ, vật làm bằng đất sét; đây là vật thứ năm không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, năm vật này không nên phân tán, không được phân tán bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả những vật đã được phân tán vẫn là chưa được phân tán; vị nào phân tán thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

 [293] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Sāvatthi theo như ý thích đã lên đường du hành đi đến Kiāgiri cùng với đại chúng tỳ khưu gồm năm trăm vị tỳ khưu có cả Sāriputta và Moggallāna. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đi đến Kiāgiri cùng với đại chúng tỳ khưu gồm năm trăm vị tỳ khưu có cả Sāriputta và Moggallāna. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy phân chia tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng. Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy, chúng ta sẽ không sắp đặt chỗ trú ngụ cho họ” rồi các vị ấy đã phân chia tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng.

Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Kiāgiri. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo nhiều vị tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, các ngươi hãy đi (trước). Khi đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, các ngươi hãy nói như vầy: “Này các đại đức, đức Thế Tôn đi đến cùng với đại chúng tỳ khưu gồm năm trăm vị tỳ khưu có cả Sāriputta và Moggallāna. Này các đại đức, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho đức Thế Tôn cùng hội chúng tỳ khưu có cả Sāriputta và Moggallāna.”

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi các vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka điều này:

- Này các đại đức, đức Thế Tôn đi đến cùng với đại chúng tỳ khưu gồm năm trăm vị tỳ khưu luôn cả Sāriputta và Moggallāna. Này các đại đức, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho đức Thế Tôn cùng hội chúng tỳ khưu có cả Sāriputta và Moggallāna.

- Này các đại đức, sàng tọa thuộc về hội chúng không có. Tất cả đã được chúng tôi chia nhau. Này các đại đức, hoan nghênh đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thích trú xá nào thì ngài sẽ ngự ở trú xá ấy. Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy, chúng tôi sẽ không sắp đặt chỗ trú ngụ cho họ.

- Này các đại đức, có phải các vị đã phân chia sàng tọa thuộc về hội chúng?

- Này các đại đức, đúng vậy.

Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka lại phân chia sàng tọa thuộc về hội chúng?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn. …(như trên)…

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka phân chia sàng tọa thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại phân chia sàng tọa thuộc về hội chúng? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, đây là năm vật không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả những vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Năm vật ấy là gì?

Tu viện và khu đất của tu viện; đây là vật thứ nhất không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Trú xá và khu đất của trú xá; đây là vật thứ hai không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Giường, ghế, nệm, gối; đây là vật thứ ba không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Chum bằng kim loại, vại bằng kim loại, hũ bằng kim loại, bình bằng kim loại, dao, rìu, búa, cuốc, xẻng; đây là vật thứ tư không nên phân chia không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Dây thừng, tre, cỏ thô, cỏ tranh, cỏ dại, đất sét, vật làm bằng gỗ, vật làm bằng đất sét; đây là vật thứ năm không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, năm vật này không nên phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, hoặc bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân chia vẫn là chưa được phân chia; vị nào phân chia thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

[294] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại Kiāgiri theo như ý thích đã lên đường đi đến Āavī. Trong khi lần lượt du hành ngài đã ngự đến Āavī. Tại nơi đó ở Āavī, đức Thế Tôn ngự ở trong điện thờ chính của Āavī.

[295] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Āavī giao các công trình mới có hình thức như sau: chỉ với mỗi một việc bảo chất lại thành đống họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc tô vữa bức tường họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lắp đặt cánh cửa họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc làm cửa sổ họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sơn màu trắng họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sơn màu đen họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc trét màu phấn đỏ họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lợp mái che họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lắp ráp họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng họ cũng giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc tráng nền họ cũng giao công trình mới, họ lại còn giao công trình mới đến hai mươi năm, họ lại còn giao công trình mới đến ba mươi năm, họ lại còn giao công trình mới đến trọn đời, họ lại còn giao công trình mới là trú xá được hoàn tất đến khi (chết và đem) hỏa táng.

Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu nhóm Āavaka lại giao các công trình mới có hình thức như sau: chỉ với mỗi một việc bảo chất lại thành đống họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc tô vữa bức tường họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lắp đặt cánh cửa họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc làm cửa sổ họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sơn màu trắng họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sơn màu đen họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc trét màu phấn đỏ họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lợp mái che họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc lắp ráp họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng họ lại giao công trình mới, chỉ với mỗi một việc tráng nền họ lại giao công trình mới, họ lại còn giao công trình mới đến hai mươi năm, họ lại còn giao công trình mới đến ba mươi năm, họ lại còn giao công trình mới đến trọn đời, họ lại còn giao công trình mới là trú xá được hoàn tất đến khi (chết và đem) hỏa táng?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn…(như trên)…

- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc bảo chất lại thành đống, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc tô vữa bức tường, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc lắp đặt cánh cửa, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc làm cửa sổ, không nên giao công trình mới với mỗi một việc sơn màu trắng, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc sơn màu đen, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc trét màu phấn đỏ, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc lợp mái che, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc lắp ráp, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng, không nên giao công trình mới chỉ với mỗi một việc tráng nền, không nên giao công trình mới đến hai mươi năm, không nên giao công trình mới đến ba mươi năm, không nên giao công trình mới đến trọn đời, không nên giao công trình mới là trú xá được hoàn tất đến khi (chết và đem) hoả táng; vị nào giao thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, ta cho phép giao công trình mới chưa khởi công hoặc chưa hoàn tất, (cho phép) giao công trình mới năm hoặc sáu năm liên quan công việc trong trú xá nhỏ, (cho phép) giao công trình mới bảy hoặc tám năm liên quan đến công việc trong nhà một mái, (cho phép) giao công trình mới mười hoặc mười hai năm liên quan đến công việc trong trú xá lớn.

[296] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu giao công trình mới là tất cả các trú xá. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên giao công trình mới là tất cả các trú xá; vị nào giao thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[297] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu giao hai công trình mới đến một vị. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên giao hai (công trình mới) đến một vị; vị nào giao thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[298] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh công trình mới các tỳ khưu cho vị khác trú ngụ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên cho vị khác trú ngụ; vị nào cho trú ngụ thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[299] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh công trình mới các tỳ khưu chiếm giữ vật thuộc về hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên chiếm giữ vật thuộc về hội chúng; vị nào chiếm giữ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép nhận lãnh một chỗ nằm tốt nhất.

[300] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu giao công trình mới đến vị đứng ở ngoài ranh giới. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên giao công trình mới đến vị đứng ở ngoài ranh giới; vị nào giao thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[301] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh công trình mới các tỳ khưu chiếm giữ luôn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên chiếm giữ luôn; vị nào chiếm giữ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép chiếm giữ trong ba tháng mùa mưa, mùa khác không được chiếm giữ.

[302] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh công trình mới các tỳ khưu bỏ đi, hoàn tục, từ trần, được biết là sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là người phạm tội cực nặng, được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là người vô căn, được biết là kẻ cộng trú theo lối trộm cắp (hình tướng), được biết là kẻ đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm (đức Phật) chảy máu, được biết là người lưỡng căn.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[303] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, vị tỳ khưu bỏ đi. (Nên nghĩ rằng): “Chớ làm tổn hại đến hội chúng” rồi nên giao cho vị khác.

Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, vị tỳ khưu hoàn tục, từ trần, được biết là sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là kẻ phạm tội cực nặng, được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là người vô căn, được biết là kẻ cộng trú theo lối trộm cắp (hình tướng), được biết là kẻ đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm (đức Phật) chảy máu, được biết là người lưỡng căn. (Nên nghĩ rằng): “Chớ làm tổn hại đến hội chúng” rồi nên giao cho vị khác.

[304] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, trong khi chưa hoàn tất, vị tỳ khưu bỏ đi. (Nên nghĩ rằng): “Chớ làm tổn hại đến hội chúng” rồi nên giao cho vị khác.

Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, trong khi chưa hoàn tất, vị tỳ khưu hoàn tục, từ trần …(như trên)... được biết là người lưỡng căn. (Nên nghĩ rằng): “Chớ làm tổn hại đến hội chúng” rồi nên giao cho vị khác.

[305] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, vị tỳ khưu bỏ đi; công trình ấy còn thuộc về vị ấy (trong mùa mưa năm ấy).

[306] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, vị tỳ khưu hoàn tục, chết đi, được biết là sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là kẻ phạm tội cực nặng; hội chúng là chủ quản.

[307] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, vị tỳ khưu được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; công trình ấy còn thuộc về vị ấy (trong mùa mưa năm ấy).

[308] Này các tỳ khưu, trường hợp sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, vị tỳ khưu được biết là người vô căn, được biết kẻ cộng trú theo lối trộm cắp (hình tướng), được biết là kẻ đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm (đức Phật) chảy máu, được biết là người lưỡng căn; hội chúng là chủ quản.

[309] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sử dụng sàng tọa là vật dụng trong trú xá của nam cư sĩ nọ tại một địa điểm khác. Khi ấy, nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các ngài đại đức lại sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[310] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại di chuyển (thảm lót) đến nhà hành lễ Uposatha (Bố Tát) và nơi tụ hội rồi ngồi xuống ở nền nhà. Các bộ phận cơ thể, các y phục đều bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép di chuyển có tính cách tạm thời.

[311] Vào lúc bấy giờ, trú xá lớn của hội chúng bị sụp đổ. Các tỳ khưu ngần ngại không di chuyển sàng tọa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép di chuyển vì mục đích bảo quản.

[312] Vào lúc bấy giờ, có mền len đắt giá là vật phụ thuộc của sàng tọa phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trao đổi (vật khác) để công việc được thuận tiện.

[313] Vào lúc bấy giờ, có tấm vải dệt đắt giá là vật phụ thuộc của sàng tọa phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trao đổi (vật khác) để công việc được thuận tiện.

[314] Vào lúc bấy giờ, có tấm da gấu phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm vật chùi chân.

[315] Vào lúc bấy giờ, có tấm vải len (cakkalika) phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm vật chùi chân.

[316] Vào lúc bấy giờ, có tấm vải (coaka) phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm vật chùi chân.

[317] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên chỗ nằm ngồi với các bàn chân chưa rửa. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên bước lên chỗ nằm ngồi với các bàn chân chưa rửa; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[318] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên chỗ nằm ngồi với các bàn chân bị ướt. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên bước lên chỗ nằm ngồi với các bàn chân bị ướt; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[319] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mang dép bước lên chỗ nằm ngồi. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên mang dép bước lên chỗ nằm ngồi; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[320] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhổ lên mặt nền đã được làm mới khiến màu bị lem luốc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên nhổ lên mặt nền đã được làm mới; vị nào nhổ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ống nhổ.

[321] Vào lúc bấy giờ, các chân giường và các chân ghế làm trầy mặt nền được làm mới. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng vải bọc tròn lại.

[322] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tựa vào tường đã được làm mới khiến màu bị lem luốc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên tựa vào tường đã được làm mới; vị nào tựa thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm bảng để dựa vào.

Tấm bảng để dựa vào làm trầy mặt nền ở bên dưới và bức tường ở bên trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép bọc lại ở bên dưới và bên trên với mảnh vải.

[323] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu có chân đã rửa sạch ái ngại khi nằm xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép nằm xuống sau khi đã trải ra tấm lót.

[324] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại Āavī theo như ý thích đã lên đường đi đến thành Rājagaha. Trong khi lần lượt du hành ngài đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó ở thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veuvana nơi nuôi dưỡng các con sóc.

[325] Vào lúc bấy giờ, thành Rājagaha có sự khó khăn về vật thực. Dân chúng không thể thực hiện bữa trai phạn dâng đến hội chúng nên muốn thực hiện bữa ăn đến các vị được chỉ định, sự thỉnh mời, bữa ăn dâng theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào mỗi kỳ Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép bữa trai phạn dâng đến hội chúng, bữa ăn dâng đến các vị được chỉ định, sự thỉnh mời, bữa ăn dâng theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào mỗi kỳ Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.

[326] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lấy cho bản thân các bữa ăn thượng hạng và cho các tỳ khưu các bựa ăn tầm thường. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị sắp xếp các bữa ăn là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (bữa ăn) đã được sắp xếp hay chưa được sắp xếp.

[327] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu, sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị sắp xếp các bữa ăn. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị sắp xếp các bữa ăn. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị sắp xếp các bữa ăn xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị sắp xếp các bữa ăn. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[328] Khi ấy, các tỳ khưu là những vị sắp xếp các bữa ăn đã khởi ý điều này: “Bữa ăn nên được sắp xếp như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc vào thẻ hoặc tấm phiếu, rút ra, rồi sắp xếp các bữa ăn (salākāya vā paikāya vā upanibandhitvā omuñjitvā bhatta uddesitunti).

[329] Vào lúc bấy giờ, hội chúng không có vị phân bố chỗ trú ngụ, …(như trên)… không có vị giữ kho đồ đạc, …(như trên)… không có vị tiếp nhận y, …(như trên)… không có vị phân chia y, …(như trên)… không có vị phân chia cháo, …(như trên)… không có vị phân chia trái cây, …(như trên)… không có vị phân chia thức ăn khô. Thức ăn khô không được phân chia nên bị hư. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị phân chia thức ăn khô là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết vật đã được phân chia và chưa được phân chia.

[330] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu, sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân chia thức ăn khô. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[331] Vào lúc bấy giờ, vật dụng linh tinh ở trong kho của hội chúng là dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị phân chia vật linh tinh là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết vật đã được phân chia và chưa được phân chia.

[332] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu nên được yêu cầu, sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân chia vật linh tinh. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[333] Vị tỳ khưu là vị phân chia các vật linh tinh nên trao mỗi một cây kim, nên trao cây kéo, nên trao đôi dép, nên trao dây thắt lưng, nên trao dây quàng ở vai, nên trao đồ lược nước, nên trao bình đựng nước theo thông lệ, nên trao dải nối theo chiều dọc (của y), nên trao dải nối theo chiều ngang (của y), nên trao mảnh lớn thuộc dải điều (của y), nên trao mảnh nhỏ thuộc dải điều (của y), nên trao vải may đường biên (của y), nên trao vải may đường viền (của y). Nếu hội chúng có bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía thì nên trao tức thời để sử dụng. Nếu vật cần dùng có thêm thì nên trao tiếp tục. Nếu vật cần dùng có thêm nữa thì cũng nên trao tiếp tục.

[334] Vào lúc bấy giờ, hội chúng không có vị tiếp nhận y khoác ngoài, …(như trên)… vị tiếp nhận bình bát, …(như trên)… vị quản trị các người phụ việc chùa, …(như trên)… vị quản trị các sa di. Các sa di không được quản trị nên không làm phận sự. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị quản trị các sa di là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết được việc cần quản trị và việc không cần quản trị.

[335] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu, sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản trị các sa di. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản trị các sa di. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản trị các sa di xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quản trị các sa di. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Dứt tụng phẩm thứ ba

Dứt Chương Sàng Tọa là chương thứ sáu

Tóm lược chương này:

[336]

Trú xá vào thời ấy

vẫn chưa được quy định

bởi đức Phật tối thượng,

các thinh văn đệ tử

của bậc Chiến Thắng ấy

bước ra từ chỗ ngụ

nơi này hoặc nơi khác.

Gia chủ đại phú hộ

đã thấy các vị ấy

nên mới nói điều này

với các vị tỳ khưu:

“Nếu các ngài cư ngụ,

tôi có thể cho làm.”

Họ hỏi ngài lãnh đạo,

vị ấy đã cho phép

năm loại chỗ ngụ là:

trú xá, nhà một mái,

tòa nhà dài, nhà lớn,

và hang động (là năm).

Đại phú hộ đã cho

xây dựng các trú xá.

Người cho dựng trú xá,

không cửa, không đóng được,

cửa, trụ cửa, rãnh xoay,

ở trên cái chốt xoay,

lỗ để luồn, dây thừng,

tay nắm, và chốt gài,

đinh khóa chốt, chốt phụ,

lỗ khóa, khóa bằng đồng,

bằng gỗ, và bằng sừng,

then cài, đinh khóa chốt,

mái che, tô trong ngoài,

cửa sổ song, gắn lưới,

và song dọc, màn che

và thảm trải, bệ cứng

và giường bằng vạt tre,

giường ván khiêng tử thi,

ghế dài, chân đẽo cong,

chân rời, ghế vuông cao,

trường k, ghế thanh ráp,

ghế lót vải, gác chân,

ghế nhiều chân, ghế mây,

và ghế lót rơm nữa.

Giường cao, và con rắn

các chân tám ngón tay,

chỉ sợi, đan tám góc,

mảnh vải, đệm bông gòn,

gối dài nửa thân người.

Đỉnh núi, và nhiều đệm,

vải và chỗ nằm ngồi.

Bọc lại rơi phía dưới,

xé ra rồi mang đi,

đấng Thiện Thệ cho phép,

chia đều bằng nắm tay.

Trong trú xá ngoại đạo,

màu trắng và màu đen,

vỏ trấu, và sét dẻo,

nhựa cây, chà bằng tay,

đất sét, bột mù tạt,

dầu sáp ong, nổi cục,

giẻ chùi, tường lồi lõm,

đất sét với phân trùn,

nhựa cây, hình gợi cảm.

Nền thấp, rồi nền móng

leo lên, họ bị té,

đám đông, tường một nửa,

lại ba, trú xá nhỏ,

và trụ áp chân tường,

thấm nước mưa, la lớn,

chốt tường, sào máng y,

mái hiên với màn che,

lan can và bụi cỏ,

cách thực hiện dưới đây.

Ngoài trời, bị hâm nóng,

giảng đường, và bên dưới,

vật chứa đồ, trú xá,

và cổng vào, phòng ở,

rồi nhà để đốt lửa,

tu viện và cổng vào,

làm theo cách dưới đây,

mái làm bằng vữa hồ

và ông Cấp Cô Độc,

có đức tin đi đến

khu rừng tên Sīta,

thấy Pháp rồi mời thỉnh

Đạo Sư cùng hội chúng.

Trên đường về kêu gọi,

nhóm người xây tu viện.

Công trình mới kiến tạo

ở thành Vesālī,

đi trước để chiếm chỗ.

Ai là vị xứng đáng

được phần ăn hạng nhất?

Và chuyện chim đa đa

ai không đáng đảnh lễ,

bị chiếm cứ, trong nhà,

ghế giường có lót nệm,

lên đường đi Xá Vệ.

Vị ấy dâng tu viện,

ồn ào giữa bữa ăn.

Và những người bị bệnh

giường tốt nhất, mánh lới,

Mười Bảy Sư, nơi đó.

“Do ai? Làm thế nào?”

Vị chia theo trú xá,

phòng ở, và phần thừa,

không chia nếu không thích.

Ở bên ngoài ranh giới,

và chiếm luôn mọi lúc,

ba thời chia chỗ ngụ,

và Upananda.

Ngài khen, các vị đứng

và cùng ngồi chung chỗ.

Đồng đẳng cấp, làm gãy

nhóm ba và nhóm hai,

không đồng đẳng, ghế dài,

họ thỏa thích mái hiên,

Và bà nội của vua,

không xa, được chia ra,

ở Kiāgiri.

Ở vùng Āavī,

chất đống, các bức tường,

các cửa, khoan lỗ chốt,

cửa sổ, sơn trắng, đen,

màu sơn đỏ, mái che,

và lắp ráp, thanh ngang,

hư hỏng, việc linh tinh,

hai mươi, ba mươi năm,

và trọn đời, hoàn tất,

chưa làm, bỏ dở dang,

Nơi nhỏ, năm, sáu năm,

một mái bảy hoặc tám,

lớn thì mười, mười hai.

Toàn bộ cả trú xá

(giao) cho chỉ một người,

nơi khác, các vị sống,

(chiếm giữ) đồ hội chúng.

Ở ngoài ranh, mọi thời,

vị ấy đã bỏ đi,

chúng hoàn tục, chết đi,

và xuống lại sa di,

xả giới, (tội) cực nặng,

bị điên, tâm rối loạn,

thọ khổ, không thấy tội,

không chịu bỏ tà kiến,

vô căn, và trộm cắp

theo ngoại đạo, thú vật,

giết cha, mẹ, La Hán,

làm xấu (tỳ khưu ni),

chia rẽ, làm chảy máu,

và có cả hai căn,

“Không tổn hại hội chúng,”

việc nên giao vị khác,

chưa xong, giao vị khác,

đã hoàn tất, bỏ đi,

vẫn còn thuộc vị ấy.

Nếu hoàn tục, chết đi,

và xuống lại sa di,

xả giới, phạm tội nặng,

hội chúng là chủ quản.

Điên, loạn tâm, thọ khổ,

không thấy, không làm thoát,

tà kiến, thuộc vị ấy.

Vô căn, và trộm cướp,

theo ngoại đạo, thú vật,

giết người mẹ, người cha,

giết vị A-la-hán,

và dâm (tỳ khưu ni),

làm chảy máu đức Phật,

và những kẻ lưỡng căn,

nếu vị ấy thú nhận,

thì hội chúng chủ quản.

Đem nơi khác, ái ngại,

bị sụp đổ, mền len,

vải dệt, tấm da gấu,

tấm vải thô, tấm vải,

và chân ướt bước lên,

mang giày dép, phun nhổ.

Các vị đã làm trầy,

và dựa vào bức tường,

có tấm dựa vẫn trầy,

rửa sạch, với tấm trải.

Thành Rājagaha

(dân chúng) không thể nào,

(cho bữa ăn) tầm thường,

vị sắp xếp bữa ăn,

“Vị sắp xếp cách nào?”

Chỉ định vị giữ kho,

vị thọ lãnh, phân chia,

vị chia cháo, trái cây,

vị chia đồ khô nữa,

việc chia vật linh tinh,

và thêm vị nhận lãnh

y áo khoác bên ngoài.

Cũng vậy, vị nhận lãnh

bình bát, vị quản trị

người phụ việc tu viện,

và các vị sa di.

Đấng toàn tri toàn giác,

hiểu biết về thế gian,

là vị làm lãnh đạo

có sự quan tâm đến

để suy tư, quán xét

lợi ích chỗ trú ngụ,

và lợi ích an lạc,

thiền định và minh sát.

[1] Theo chú giải của Kinh Trường Bộ, senāsana được phân làm bốn loại: loại thứ nhất vihārasenāsana gồm có năm loại chỗ trú ngụ (trong bản dịch sẽ dùng từ “chỗ trú ngụ” cho loại này, xem ở đoạn [200]); loại thứ nhì mañcapīhasenāsana là giường, ghế, nệm, gối (trong bản dịch sẽ giữ nguyên từ “sàng tọa” cho loại này); loại thứ ba santhatasenāsana là các loại thảm; loại thứ tư okāsasenāsana được giải thích là nơi mà vị tỳ khưu sẽ trở lại.

[2] Āgatānāgata = āgata + anāgata: đã đi đến và chưa đi đến, được dịch thoát nghĩa là hiện tại và vị lai.

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích vữa hồ được làm bằng đất sét trộn với tro và phân bò.

[4] Dukkha, samudaya, nirodha, magga tức là Khổ, Nguyên nhân sanh khởi, Niết Bàn, Đạo Lộ.

[5] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Nghe nói vị trưởng lão trong khi quan tâm các vị bị bệnh, trong giúp đỡ các vị già cả yếu đuối nên đi đến sau tất cả.”

[6] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 17.

[7] Tương đương ngày 16 tháng sáu âm lịch, tức là ngày đầu tiên của thời kỳ an cư mùa mưa đợt đầu.

Hết Chương 6 Sàng TọaXem tiếp Chương 7Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments