Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 2
06. Chương Sàng Tọa (Senāsanakkhandhakaṃ)
1. Tụng phẩm thứ nhất
[198] Ở thành Rājagaha. Câu chuyện nhà đại phú
[201] Sự dâng cúng trú xá (vihāra). Bài kệ về sự dâng cúng trú xá
[205] Chuyện liên quan đến trú xá: Cánh cửa, Khóa, Mái lợp, Cửa sổ
[208] Cho phép giường nằm. Các loại giường ghế
[218] Liên quan đến gối, nệm, v.v...
[222] Trang hoàng trú xá: Việc sơn màu trắng, đỏ, đen, v.v...
Hình ảnh gợi cảm
[227] Việc kiến thiết trú xá: Nền, Lan can để vịn, Màn che, Ba loại
phòng, v.v...
[235] Việc xây dựng: Hội trường, Nhà nước uống, Mái che chỗ nước
uống, v.v...
[237] Hàng rào của trú xá. Cổng rào của trú xá
[239] Nhà để đốt lửa. Hàng rào của tu viện. Cổng của tu viện. Năm
loại mái che
[198] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương
Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con
sóc.
Vào lúc bấy giờ, chỗ trú ngụ chưa được đức Thế Tôn quy định cho
các tỳ khưu. Và các tỳ khưu ấy cư ngụ ở nơi này nơi khác, ở trong rừng rậm, ở gốc
cây, nơi sườn núi, nơi thung lũng, trong hang núi, nơi bãi tha ma, trong khu rừng
thưa, nơi đồng trống, ở đống rơm. Các vị ấy, vào lúc sáng sớm, đã đi ra từ nơi
này nơi khác, từ trong rừng rậm, từ gốc cây, từ sườn núi, từ thung lũng, từ
trong hang núi, từ bãi tha ma, từ khu rừng thưa, từ đồng trống, từ đống rơm với
nét tươi tỉnh khi đi tới đi lui, khi nhìn qua nhìn lại, khi co duỗi (tay chân),
với đôi mắt nhìn xuống, được thành tựu về các oai nghi.
[199] Vào lúc bấy giờ, có nhà đại phú ở thành Rājagaha đã đi đến
công viên vào lúc sáng sớm. Nhà đại phú thành Rājagaha đã nhìn thấy các vị tỳ
khưu ấy vào lúc sáng sớm đi ra từ nơi này nơi khác, từ trong rừng rậm, từ gốc
cây, từ sườn núi, từ thung lũng, từ trong hang núi, từ bãi tha ma, từ khu rừng
thưa, từ đồng trống, từ đống rơm với nét tươi tỉnh khi đi tới đi lui, khi nhìn
qua nhìn lại, khi co duỗi (tay chân), với đôi mắt nhìn xuống, được thành tựu về
các oai nghi. Sau khi nhìn thấy, tâm của vị ấy đã ngưỡng mộ. Khi ấy, nhà đại
phú thành Rājagaha đã đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với các
vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa các ngài, nếu tôi có thể cho xây dựng các trú xá, các ngài
có thể cư ngụ trong các trú xá của tôi không?
- Này gia chủ, các trú xá chưa được đức Thế tôn cho phép.
- Thưa các ngài, chính vì điều ấy các ngài có thể hỏi đức Thế Tôn
rồi báo cho tôi hay.
- Này gia chủ, đúng vậy.
Rồi các vị tỳ khưu ấy nghe theo nhà đại phú thành Rājagaha đã đi
đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một
bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, nhà đại phú ở thành Rājagaha có ý muốn cho xây dựng
các trú xá. Bạch ngài, vậy chúng con nên thực hành như thế nào?
[200] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép năm loại chỗ trú ngụ là trú xá
(vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
[201] Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp nhà đại phú thành
Rājagaha, sau khi đến đã nói với nhà đại phú thành Rājagaha điều này:
- Này gia chủ, các trú xá đã được đức Thế Tôn cho phép. Bây giờ,
gia chủ hãy biết là thời điểm của việc gì.
Sau đó, nhà đại phú thành Rājagaha đã cho dựng lên sáu mươi trú
xá chỉ trong một ngày. Rồi sau khi hoàn tất sáu mươi trú xá ấy, nhà đại phú
thành Rājagaha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi
ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nhà đại phú thành Rājagaha đã
nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời
bữa trai phạn của tôi vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, nhà đại phú
thành Rājagaha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy nhà đại phú thành Rājagaha đã bảo chuẩn
bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho thông báo thời giờ đến đức Thế
Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
[202] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, và
đi đến tư gia của nhà đại phú thành Rājagaha, sau khi đến đã ngồi xuống chỗ ngồi
đã được sắp đặt cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, nhà đại phú thành Rājagaha
đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với
thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong
bàn tay đã rời khỏi bình bát, nhà đại phú thành Rājagaha đã ngồi xuống ở một
bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nhà đại phú thành Rājagaha đã nói với đức Thế
Tôn điều này:
- Bạch ngài, sáu mươi trú xá này đã được tôi cho xây dựng vì mục
đích phước báu, vì mục đích cõi trời. Bạch ngài, tôi nên thực hành như thế nào
về những trú xá này?
- Này gia chủ, chính vì điều ấy ngươi hãy cho thiết lập sáu mươi
trú xá ấy dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai.[2]
- Bạch ngài, xin vâng.
Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha nghe theo đức Thế Tôn đã thiết
lập sáu mươi trú xá ấy dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai. Sau đó,
đức Thế Tôn đã tùy hỷ với nhà đại phú thành Rājagaha bằng những lời kệ này:
[203]
Chúng ngăn ngừa nóng lạnh
và các loài thú dữ,
các loài rắn, muỗi mòng,
luôn các cơn mưa lạnh (từ nơi ấy).
Cơn gió nóng dữ dội
sanh lên bị dội lại (từ nơi ấy).
Sự bố thí trú xá
đến hội chúng để hành
thiền định và minh sát
đem lại sự nương náu
đem lại sự an lạc
đã được chư Phật Đà
ngợi khen là tối thắng.
Vì thế người trí tuệ
thấy lợi ích cho mình
cho xây trú xá đẹp
để các bậc đa văn
có thể ngụ nơi ấy.
Nên cúng dường cơm nước
y áo, chỗ trú ngụ
đến các chân tu ấy
có tâm tư thanh tịnh.
Đến người, các vị thuyết
pháp xua mọi khổ đau
người thấy pháp đời này
không còn ô nhiễm nữa
và chứng ngộ Niết Bàn.
Sau khi tùy hỷ bằng những lời kệ ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi.
[204] Dân chúng đã nghe rằng: “Nghe nói các trú xá đã được đức Thế
Tôn cho phép” rồi cho xây dựng các trú xá một cách hăng hái. Các trú xá ấy
không có cửa nên các con rắn, các con bọ cạp, và các con rết bò vào. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) cửa.
Sau khi đục lỗ ở tường, họ đã buộc cánh cửa bằng dây leo và dây
thừng. Các con chuột và các con mối đã gặm nhấm (dây buộc). Các cánh cửa có dây
buộc đã bị gặm nhấm rơi xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) trụ cửa, rãnh xoay, và chốt
xoay.
Các cánh cửa không sử dụng được. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) lỗ để luồn và dây thừng để
luồn qua.
Các cánh cửa không đóng kín được. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) tay nắm, chốt gài, đinh khóa
chốt, chốt phụ.
[205] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không thể khóa cửa được. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) lỗ khóa. Có ba loại khóa:
khóa bằng đồng, khóa bằng gỗ, khóa bằng sừng.
Khi các vị mở cửa đi vào trong, các trú xá không được an toàn.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) then cài, đinh khóa chốt.
[206] Vào lúc bấy giờ, các trú xá được lợp cỏ nên lạnh lẽo vào
mùa lạnh, nóng nực vào mùa nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái, tô vữa bên trong và
bên ngoài.
[207] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không có cửa sổ nên không tốt
cho mắt và có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại cửa sổ: cửa sổ chấn song
ngang, cửa sổ gắn lưới, cửa sổ chấn song dọc.
Các con sóc và dơi đi vào do các khe hở ở cửa sổ. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) màn che cửa sổ.
Các con sóc và dơi đi vào do các khe hở của màn che. ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) cánh cửa sổ, tấm chắn cửa sổ.
[208] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nằm ở nền đất. Cơ thể và y bị
bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thảm trải bằng cỏ.
Thảm trải bằng cỏ bị các con chuột và mối ăn. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bệ cứng.
Nằm trên bệ cứng, cơ thể bị ê ẩm. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giường vạt tre.
[209] Vào lúc bấy giờ, giường lắp ráp dùng để khiêng xác chết được
phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giường lắp ráp.
Ghế lắp ráp được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế lắp ráp.
[210] Vào lúc bấy giờ, giường xếp dùng để khiêng xác chết được
phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giường xếp.
Ghế xếp được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế xếp.
[211] Vào lúc bấy giờ, giường có chân đẽo cong dùng để khiêng xác
chết được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giường có chân đẽo cong.
Ghế có chân đẽo cong được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế có chân đẽo cong.
[212] Vào lúc bấy giờ, giường có chân tháo rời được dùng để
khiêng xác chết được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giường có chân tháo rời
được.
Ghế có chân tháo rời được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế có chân tháo rời được.
[213] Vào lúc bấy giờ, ghế gỗ vuông (āsandika) được phát sanh đến
hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế gỗ vuông.
Ghế gỗ vuông loại cao được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) luôn cả ghế vuông loại
cao.
Ghế dựa dài (sattaṅgo) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế dựa dài.
Ghế dựa dài loại cao được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) luôn cả ghế dựa dài loại
cao.
Ghế làm bằng các thanh ráp lại (bhaddapīṭhaṃ) được phát sanh. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế làm bằng các thanh
ráp lại.
Ghế lót vải (pīṭhikā) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế lót vải.
Ghế có chỗ gác chân (eḷakapādakaṃ pīṭhaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế có chỗ gác chân.
Ghế có nhiều chân (āmalakavaṭṭikaṃ pīṭhaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế có nhiều chân.
Tấm ván (phalakaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm ván.
Ghế mây (kocchaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế mây.
Ghế lót rơm (palālapīṭhaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế lót rơm.
[214] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nằm ở giường cao.
Dân chúng trong khi đi dạo quanh trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- ...(như trên)... giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên nằm giường cao; vị nào nằm thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
[215] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi nằm ở giường thấp
đã bị rắn cắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khung giường (mañcapaṭipādakaṃ).
[216] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng khung giường
loại cao. Các vị đu đưa với các khung giường loại cao. Dân chúng trong khi đi dạo
quanh trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- ...(như trên)... giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng khung giường loại cao; vị
nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép khung giường cao tối đa
tám ngón tay.
[217] Vào lúc bấy giờ, chỉ sợi được phát sanh đến hội chúng. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đan chỉ ở giường.
Các góc tốn nhiều chỉ. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xuyên qua ở các góc và dệt chéo ô
nhỏ.
Mảnh vải (coḷakaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng làm thảm lót nền.
Bông gòn (tūlikā) được phát sanh. ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tháo ra dùng làm gối. Có ba loại
bông gòn: bông gòn từ cây, bông gòn từ dây leo, bông gòn từ cỏ.
[218] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng gối dài nửa
thân người. Dân chúng trong khi đi dạo quanh trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- ...(như trên)... giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng gối dài nửa thân người; vị
nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện gối có kích
thước của cái đầu.
[219] Vào lúc bấy giờ, có lễ hội trên đỉnh núi ở thành Rājagaha.
Dân chúng chuẩn bị nhiều nệm để phục vụ các quan đại thần: nệm len, nệm vải, nệm
sợi vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá. Khi lễ hội đã xong, họ tháo lấy các bao nệm rồi đem
đi. Các tỳ khưu đã nhìn thấy tại chỗ lễ hội nhiều sợi len, sợi vải, sợi từ vỏ
cây, cỏ, và lá bị quăng bỏ, sau khi nhìn thấy các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép năm loại nệm: nệm len, nệm vải, nệm
sợi vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá.
[220] Vào lúc bấy giờ, vải phụ tùng của giường ghế được phát sanh
đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) để bọc nệm.
[221] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trải nệm của giường ở ghế, trải
nệm của ghế ở giường. Các nệm bị rời ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép giường được bọc nệm (onaddhamañcaṃ), ghế được bọc nệm (onaddhapīṭhaṃ).
Các vị trải lên nhưng không làm tấm lót nên đã bị rơi ra từ bên
dưới. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm tấm lót (bên dưới), trải đều
ra, rồi bọc nệm.
Họ tháo bao nệm rồi lấy đem đi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bôi màu (phosituṃ).
Họ vẫn lấy đem đi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc thực hiện các đường vẽ
(bhittikammaṃ).
Họ vẫn lấy đem đi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép các đường vẽ bằng bàn tay
(hatthabhittiṃ).
[222]. Vào lúc bấy giờ, các chỗ nằm của các ngoại đạo có màu trắng,
nền được làm màu đen, tường được trét màu đỏ. Số đông dân chúng đi đến để ngắm
các chỗ nằm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sơn) màu trắng, màu đen, trét màu
đỏ ở trú xá.
[223] Vào lúc bấy giờ, màu trắng không bám được ở tường bị lồi
lõm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép để các nắm vỏ trấu vào, dùng cái
bay gạt bằng, rồi bôi màu trắng lên.
Màu trắng không dính chặt vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép để đất sét dẻo vào, dùng cái bay gạt
bằng, rồi bôi màu trắng lên.
Màu trắng không dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng nhựa cây, bột nghiền.
[224] Vào lúc bấy giờ, màu đỏ không bám được ở tường bị lồi lõm.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép để các nắm vỏ trấu vào, dùng cái
bay gạt bằng, rồi bôi màu đỏ lên.
Màu đỏ không dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng đất sét trộn với cám đỏ, dùng
cái bay gạt bằng, rồi bôi màu đỏ lên.
Màu đỏ không dính chặt vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng bột trái mù tạt (sāsapakuṭṭaṃ), dầu sáp ong.
(Chất ấy) bị đóng thành từng cục. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng miếng giẻ để chùi.
[225] Vào lúc bấy giờ, màu đen không bám được ở nền đất bị lồi
lõm. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép để các nắm vỏ trấu vào, dùng cái
bay gạt bằng, rồi bôi màu đen lên.
Màu đen không dính chặt vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng đất sét trộn với phân trùn,
dùng cái bay gạt bằng, rồi bôi màu đen lên.
Màu đen không dính chặt vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng nhựa cây, chất làm đông
(kasāvaṃ).
[226] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục sư bảo thực hiện hình
ảnh gợi cảm ở trú xá: hình ảnh người nữ, hình ảnh người nam. Dân chúng trong
khi đi dạo quanh trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên bảo thực hiện hình ảnh gợi cảm ở trú
xá: hình ảnh người nữ, hình ảnh người nam; vị nào bảo thực hiện thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép
trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại.
[227] Vào lúc bấy giờ, các trú xá có nền thấp nên bị ngập nước. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên bậc thang. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[228] Vào lúc bấy giờ, các trú xá trở thành nơi công động, đông đảo
người. Các tỳ khưu ái ngại khi nằm xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) màn che.
Họ vén màn che lên nhìn vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bức tường thấp.
Họ nhìn vào từ phía trên của bức tường thấp. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) ba loại phòng: phòng
vuông, phòng chữ nhật, phòng ở trên gác xép.
[229] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu làm phòng ở chính giữa trong
trú xá nhỏ. Lối vào không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) phòng ở một bên trong
trú xá nhỏ, ở chính giữa trong trú xá lớn.
[230] Vào lúc bấy giờ, chân tường của trú xá bị hư hỏng. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cây gỗ áp vào.
Tường của trú xá bị thấm nước mưa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm chắn bảo vệ, vữa hồ.[3]
[231] Vào lúc bấy giờ, rắn từ mái cỏ rơi xuống trên vai của vị tỳ
khưu nọ. Bị hoảng sợ, vị ấy đã kêu thét lên. Các tỳ khưu đã chạy lại và nói với
vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, vì sao đại đức đã kêu thét lên vậy?
Khi ấy, vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) vòm che ở mái.
[232] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu treo các túi ở chân giường và ở
cả chân ghế nữa. Chúng đã bị các con chuột và mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) chốt đinh ở tường, móc
ngà voi.
[233] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để y ở trên giường và ở cả
trên ghế nữa. Y bị rách thành miếng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y
ở trú xá.
[234] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không có các mái hiên nên không
che chắn (ánh nắng) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) mái hiên, sân có mái
che, sân ở phía trong, hàng hiên có mái che.
Các mái hiên trở thành nơi công cộng. Các tỳ khưu ái ngại khi nằm
xuống. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) màn che di chuyển bằng
bánh xe, màn che loại kéo lên.
[235] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi tiến hành việc phân
phối bữa ăn ở ngoài trời bị mệt mỏi vì lạnh, vì nóng. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) phòng hội họp.
Phòng hội họp có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên bậc thang. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong phòng hội họp. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[236] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu phơi y trên nền đất ở ngoài trời.
Y bị dơ bẩn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y
ở ngoài trời.
…(như trên)… Nước uống bị nắng sưởi ấm. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà nước uống
(pānīyasālaṃ), mái
che chỗ nước uống (pānīyamaṇḍapaṃ).
Nhà nước uống có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên bậc thang. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Rác cỏ rơi vào trong nhà nước uống. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Tô uống nước không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vỏ sò để uống nước, cốc
để uống nước.
[237] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không được rào lại. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh ba loại hàng rào: hàng
rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, và hàng rào bằng gỗ.
Cổng ra vào không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cổng ra vào.
Cổng ra vào có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ rơi ở nơi cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại.
[238] Vào lúc bấy giờ, căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.
Các vị làm không có kết quả. …(như trên)…
-Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (đào) rãnh thoát nước.
[239] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thực hiện chỗ đốt lửa ở nơi
này nơi nọ trong căn phòng. Căn phòng bị rác bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) nhà để đốt lửa ở một
bên.
Nhà để đốt lửa có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên bậc thang. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nhà để đốt lửa không có cửa. …(như trên)…
-Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ rơi vào trong nhà để đốt lửa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Vào lúc bấy giờ, tu viện không được rào lại. Các con dê và súc vật
phá hoại cây cối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bao bọc quanh bằng ba loại rào
ngăn: rào ngăn bằng tre, rào ngăn bằng cây gai, và hào rãnh.
Cổng ra vào không có. Chính vì như thế, các con dê và súc vật lại
phá hoại cây cối. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cổng ra vào, hai cánh cửa gắn
nhánh cây có gai, vòm cổng, và móc khóa.
Rác cỏ rơi ở nơi cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại.
Tu viện bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.
Các vị làm không có kết quả. …(như trên)…
-Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (đào) rãnh thoát nước.
[240] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý định
cho xây dựng tòa nhà dài có tô vữa hồ đất sét nhằm sự lợi ích cho hội chúng.
Khi ấy, các tỳ khưu khởi ý điều này: “Mái che loại nào đã được đức Thế Tôn cho
phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép năm loại mái che: mái che lợp
ngói, mái che lợp đá phiến, mái che bằng vữa hồ, mái che lợp cỏ, mái che lợp
lá.
Dứt tụng phẩm thứ nhất
Xem Tụng phẩm thứ nhì - Xem tiếp Chương 7 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments