Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 2
Chương 8. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 3. Giáo Giới
Mục Lục
21. Điều học thứ nhất (Giáo giới
tỳ-khưu ni)
[406] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Chỉ định vị giáo giới
tỳ-khưu ni. Sự quy định
[407] Tám điều kiện của vị tỳ-khưu giáo giới tỳ-khưu ni
[407] Tám trọng pháp của tỳ-khưu ni
22. Điều học thứ nhì (Không
giáo giới tỳ-khưu ni khi mặt trời đã lặn)
[424] Câu chuyện về trưởng lão Cūḷapanthaka. Sự quy định
23. Điều học thứ ba: (Không
giáo giới cho các tỳ-khưu ni ở ni viện)
[429] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[430] Câu chuyện về bà Mahāpajāpati Gotamī bị bệnh. Sự quy định thêm
24. Điều học thứ tư (Chỉ trích
vị tỳ-khưu giáo giới vì lợi lộc)
[434] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định
25. Điều học thứ năm (Cho y đến
tỳ-khưu ni)
[442] Câu chuyện về vị tỳ-khưu nọ. Sự quy định lần thứ nhất
[443] Sự quy định thêm
26. Điều học thứ sáu (May y
cho tỳ-khưu ni)
[447] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định
27. Điều học thứ bảy (Hẹn trước
rồi đi chung đường xa với tỳ-khưu ni)
[451] Câu chuyện về tỳ-khưu Upananda. Sự quy định lần thứ nhất
[452] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni bị cướp. Sự quy định thêm
28. Điều học thứ tám (Hẹn trước
rồi đi chung thuyền với tỳ-khưu ni)
[456] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[457] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni bị cướp. Sự quy định thêm
29. Điều học thứ chín (Vật thực
được tỳ-khưu ni môi giới)
[461] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định lần thứ
nhất
[462] Câu chuyện về vị tỳ-khưu đi thăm thân quyến. Sự quy định
thêm
30. Điều học thứ mười (Ngồi ở
nơi kín đáo với tỳ-khưu ni)
[466] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định
[469] Bài kệ tóm lược phần Giáo Giới
Nội Dung
21. Điều học thứ nhất (Giáo giới
tỳ-khưu ni)
[406] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Chỉ định vị giáo giới
tỳ-khưu ni. Sự quy định
[406] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc điều này:
- Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo
giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật
thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại đức, vậy chúng ta cũng
giáo giới các tỳ khưu ni.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và
đã nói điều này:
- Này các sư tỷ, hãy đi đến gặp chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo
giới.
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư,
sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy,
các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thuyết Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau
đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đã giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu
ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đã có hiệu quả?
- Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại
đức nhóm Lục Sư thuyết Pháp thoại chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện
nhảm nhí rồi giải tán?
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho các tỳ khưu ni ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức
Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp
thoại, các tỳ khưu ni ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội
chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp thoại cho các tỳ
khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thuyết Pháp thoại cho
các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải
tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu;
sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị
giáo giới tỳ khưu ni. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định
vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ý với việc
chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị
nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo
giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị
giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị giáo giới
tỳ khưu ni. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng
nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như trên)... Và này
các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào chưa
được chỉ định mà giáo giới tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và
điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[407] Tám điều kiện của vị tỳ-khưu giáo giới tỳ-khưu ni
[407] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão đã được chỉ định trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc điều này:
- Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lão đã được chỉ định
trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các
vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại
đức, vậy chúng ta hãy đi ra khỏi ranh giới, sau khi chỉ định là vị giáo giới tỳ
khưu ni cho lẫn nhau, chúng ta hãy giáo giới các tỳ khưu ni.
Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi ra khỏi ranh giới và đã chỉ
định là vị giáo giới tỳ khưu ni cho lẫn nhau, sau đó đã đi đến gặp các tỳ khưu
ni và đã nói điều này:
- Này các sư tỷ, chúng tôi cũng đã được chỉ định. Hãy đi đến gặp
chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo giới.
Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư,
sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy,
các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thuyết Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau
đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đã giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu
ni ấy đang đứng một bên điều này:
- Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đã có hiệu quả?
- Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại
đức nhóm Lục Sư thuyết Pháp thoại chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện
nhảm nhí rồi giải tán?
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho các tỳ khưu ni ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức
Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp
thoại, các tỳ khưu ni ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội
chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp thoại cho các tỳ
khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thuyết Pháp thoại cho
các tỳ khưu ni chỉ chút ít sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải
tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni
là vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: 1/ Là vị có giới, sống thu thúc trong sự
thu thúc của giới bổn Pātimokkha, là vị đã được thành tựu về hành xứ, [1] thấy
được sự sợ hãi trong những tội nhỏ nhặt, là vị thọ trì và thực hành trong các
điều học; 2/ là vị nghe nhiều, ghi nhớ điều đã nghe, tích lũy điều đã nghe, các
Pháp nào là toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn kết,
thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một
cách trọn vẹn và đầy đủ, các Pháp có hình thức như thế được nghe nhiều, được
thuộc nằm lòng, được ôn tập bằng khẩu, được suy xét bằng tâm, được khéo phân
tích bằng kiến thức; 3/ cả hai giới bổn Pātimokkha được khéo truyền thừa một
cách chi tiết, khéo được chia chẽ, khéo được thực hành, khéo được xác định theo
từng điều học theo từng từ ngữ; 4/ là vị có giọng nói rõ ràng, có cách nói lôi
cuốn; 5/ được nhiều tỳ khưu ni quý mến và ưa thích; 6/ có năng lực giáo giới
các tỳ khưu ni; 7/ trước đây không có vi phạm tội nghiêm trọng đối với người nữ
đã xuất gia mặc y ca-sa theo đức Thế Tôn ấy;[2] 8/ là vị được hai mươi năm hoặc
hơn hai mươi năm (thâm niên). Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị tỳ khưu
hội đủ tám điều kiện này làm vị giáo giới tỳ khưu ni.
[40?] Tám trọng pháp của tỳ-khưu ni
[408] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Chưa được chỉ định nghĩa là chưa được chỉ định bằng hành sự với lời
thông báo đến lần thứ tư.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
[409] Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị). Vị giáo giới với pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác). Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[410] Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên quét dọn chỗ ngụ, chuẩn bị
nước uống nước rửa, sắp đặt chỗ ngồi, sau khi giữ lại vị thứ nhì[3] rồi nên ngồi
xuống. Các tỳ khưu ni đi đến nơi ấy nên đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi nên ngồi xuống
ở một bên. Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên hỏi rằng: “Này các sư tỷ, các cô đã
đến đầy đủ chưa?”[4] Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đã đến
đầy đủ,” (nên hỏi rằng): “Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành
không?” Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, có được thực hành,” (nên nói
rằng): “Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới” rồi nên ban lời giáo giới. Nếu
(các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, không được thực hành,” (các tỳ khưu ni)
nên được nhắc lại rằng:
“Tỳ khưu ni đã tu lên bậc trên được một trăm năm nên thực hành sự
đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay, phận sự thích hợp đến vị tỳ khưu vừa tu lên bậc
trên vào ngày hôm ấy. Đây là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm
chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni không nên an cư mùa mưa ở trú xứ không có tỳ khưu. Đây
cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng,
cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ
khưu: việc hỏi ngày Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới. Đây cũng là
Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính,
và không được vi phạm cho đến trọn đời
Tỳ khưu ni sau khi mãn mùa (an cư) mưa nên hành lễ Pavāraṇā ở cả
hai hội chúng dựa trên ba yếu tố: hoặc do thấy, hoặc do nghe, hoặc vì nghi ngờ.
Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng,
cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni vi phạm giới nghiêm trọng nên thực hành hành phạt
mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp,
thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn
đời.
Cô ni tu tập sự (sikkhamānā) đã thực hành điều học về sáu pháp
trong hai năm nên tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây cũng là
Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính,
và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Tỳ khưu ni không vì bất cứ nguyên do gì được phép mắng chửi hoặc
gièm pha tỳ khưu. Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm
chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
Kể từ hôm nay, việc khuyên bảo của các tỳ khưu ni đến các tỳ khưu
bị ngăn cấm, việc khuyên bảo của các tỳ khưu đến các tỳ khưu ni không bị ngăn cấm.
Đây cũng là Pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng,
cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.”
Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đã đến đầy đủ,”
vị nói về pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi chưa đầy đủ,”[5]
vị nói về tám Trọng Pháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi không ban lời giáo giới, vị nói về pháp khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[411] Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu
ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu
ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng
đối trị).
[412] Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa
đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi,
vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[413] Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội
chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như
trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ,
vị giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[414] Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự
hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[415] Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy
đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị
giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[416] Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội
chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như
trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị
giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[417] Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội
chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[418] Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni
chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài
nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[419] Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng
tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)...
có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo
giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[420] Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội
chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như
trên)... có sự hoài nghi, vị giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị
giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[421] Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy
đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ...(như trên)... có sự hoài nghi, vị
giáo giới ...(như trên)... nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[422] Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng
tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ
khưu ni đầy đủ–nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới thì vô tội.
[423] Vị đang ban cho phần đọc tụng,[6] vị đang ban cho phần giải
thích,[7] vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,” vị hỏi
câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang
nói vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới)
cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ nhất
22. Điều học thứ nhì (Không
giáo giới tỳ-khưu ni khi mặt trời đã lặn)
[424] Câu chuyện về trưởng lão Cūḷapanthaka. Sự quy định
[424] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni theo phiên. Vào lúc bấy giờ là phiên của đại đức Cūḷapanthaka giáo giới các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Bây giờ ngày hôm nay, sự giáo giới sẽ là không có hiệu quả. Bây
giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại chính lời cảm hứng ấy.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đại đức Cūḷapanthaka, sau
khi đến đã đảnh lễ đại đức Cūḷapanthaka rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Cūḷapanthaka
đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang ngồi một bên điều này:
- Này các sư tỷ, các cô đã đến đầy đủ chưa?
- Thưa ngài, chúng tôi đã đến đầy đủ.
- Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành không?
- Thưa ngài, có được thực hành.
- Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới.
Sau khi ban lời trên, vị ấy đã đọc đi đọc lại bài cảm hứng này:
Tâm hướng thượng, chẳng lười,
hiền triết tu trí đạo,
vị ấy không ưu sầu,
an tịnh, luôn chánh niệm.
[425] Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Không phải chúng ta đã nói rằng: “Bây giờ ngày hôm nay, sự giáo
giới sẽ là không có hiệu quả. Bây giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại
chính lời cảm hứng ấy” hay sao?
Đại đức Cūḷapanthaka đã nghe được lời nói trao đổi này của các tỳ
khưu ni ấy. Khi ấy, đại đức Cūḷapanthaka đã bay lên không trung rồi đi kinh
hành trong không trung trên bầu trời, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống,
rồi biến thành khói, rồi cháy rực lên, rồi biến mất. Vị ấy nói lên chính bài cảm
hứng ấy và nhiều Phật ngôn khác. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Thưa ngài, thật là kỳ diệu! Thưa ngài, thật là phi thường! Quả
thật từ trước đến nay, sự giáo giới cho chúng tôi trước đây không được hiệu quả
như vầy, như là (sự giáo giới) của ngài đại đức Cūḷapanthaka!
Sau đó, đại đức Cūḷapanthaka đã giáo giới các tỳ khưu ni ấy cho đến
khi trời tối hẳn mới giải tán (nói rằng):
- Này các sư tỷ, hãy đi đi.
Khi ấy, cửa thành đã đóng nên các tỳ khưu ni ấy đã trú lại bên
ngoài thành đến sáng sớm mới đi vào thành phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này không còn Phạm hạnh; họ đã ở lại với các tỳ
khưu trong tu viện bây giờ mới đi vào thành phố.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao đại đức Cūḷapanthaka lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt
trời đã lặn?
…(như trên)…
- Này Cūḷapanthaka, nghe nói ngươi giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt
trời đã lặn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Cūḷapanthaka, vì sao ngươi lại giáo giới các tỳ khưu ni khi
mặt trời đã lặn vậy? Này Cūḷapanthaka, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến
điều học này như vầy: “Dầu đã được chỉ định, nếu vị tỳ khưu giáo giới tỳ khưu
ni khi mặt trời đã lặn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[426] Đã được chỉ định nghĩa là đã được chỉ định bằng hành sự với
lời thông báo đến lần thứ tư.
Khi mặt trời đã lặn: khi mặt trời đã đi xuống ở bên dưới.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp hoặc với pháp khác thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[427] Khi (mặt trời) đã lặn, nhận biết là đã lặn, vị giáo giới
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi (mặt trời) đã lặn, có sự hoài nghi, vị giáo giới thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Khi (mặt trời) đã lặn, (lầm tưởng) là chưa lặn, vị giáo giới thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Khi (mặt trời) chưa lặn, (lầm tưởng) là đã lặn, phạm tội dukkaṭa.
Khi (mặt trời) chưa lặn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Khi (mặt trời) chưa lặn, nhận biết là chưa lặn thì vô tội.
[428] Vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban cho phần giải
thích,vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,” vị hỏi câu
hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói
vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới)
cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ nhì
23. Điều học thứ ba: (Không
giáo giới cho các tỳ-khưu ni ở ni viện)
[429] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[429] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư điều này:
- Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi nghe giáo giới.
- Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy
nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đi đến ngay tại đây và giáo giới cho chúng
tôi.
Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện lại giáo
giới cho các tỳ khưu ni?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến ni viện lại giáo
giới cho các tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi đi đến ni viện rồi
giáo giới cho các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi đi đến ni viện lại
giáo giới cho các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các
ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến ni viện
rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều
học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[430] Câu chuyện về bà Mahāpajāpati Gotamī bị bệnh. Sự quy định
them
[430] Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpati Gotamī bị bệnh. Các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến thăm bà Mahāpajāpati Gotamī, sau khi đến đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī điều này:
- Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện
không?
- Thưa các ngài, sức khoẻ tôi không khá. Mọi việc không được thuận
tiện. Thưa các ngài, xin hãy giảng Pháp.
- Này sư tỷ, sau khi đi đến ni viện không được phép giảng Pháp cho
các tỳ khưu ni. Rồi trong lúc ngần ngại đã không thuyết giảng.
Sau đó, vào buổi sáng đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến
thăm bà Mahāpajāpati Gotamī, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt
sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī điều
này:
- Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện
không?
- Bạch ngài, trước đây các tỳ khưu trưởng lão đi đến gặp con thường
giảng Pháp cho con, vì thế con được an lạc. Giờ đây, các vị (nghĩ rằng): “Đức
Thế Tôn đã ngăn cấm,” trong lúc ngần ngại không thuyết giảng, vì thế con không
được an lạc.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi đi đến ni viện được giáo
giới tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học
này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới cho các tỳ
khưu ni thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ
trong trường hợp ấy là vị tỳ khưu ni bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[431] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Ni viện nghĩa là nơi nào các tỳ khưu ni cư ngụ dầu chỉ một đêm.
Sau khi đi đến: sau khi đi lại nơi ấy.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp hoặc với pháp khác thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Vị tỳ khưu ni bị bệnh nghĩa là không thể đi vì việc giáo giới hoặc
vì việc cộng trú.
[432] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc
trên, vị sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị sau khi đi đến
ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ.
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên,
vị sau khi đi đến ni viện rồi giáo giới thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
ngoại trừ có duyên cớ.
Vị giáo giới bằng pháp khác thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng thì phạm tội
dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đã tu lên bậc trên,
phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên
thì vô tội.
[433] Khi có duyên cớ, vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban
cho phần giải thích, vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hãy nhắc lại,”
vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị
đang nói vì lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị
giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ ba
24. Điều học thứ tư (Chỉ trích
vị tỳ-khưu giáo giới vì lợi lộc)
[434] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định
[434] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lão trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói như vầy:
- Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các
tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi
lộc.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại phát ngôn như vầy: “Các tỳ
khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu
trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc”?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phát ngôn như vầy: “Các tỳ
khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu
trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phát ngôn như vầy:
“Các tỳ khưu trưởng lão không vì tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các
tỳ khưu trưởng lão giáo giới các tỳ khưu ni vì nguyên nhân lợi lộc”? Này những
kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
…(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Các tỳ khưu giáo giới cho các tỳ khưu ni vì
nguyên nhân lợi lộc’ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[435] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Vì nguyên nhân lợi lộc: vì nguyên nhân y phục, vì nguyên nhân vật
thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh,
vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng,
vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường.
[436] Nói như vầy: Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất
danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm
vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên nhân y phục,
vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là
dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì
nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường;” vị
nói thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[437] Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, vị nói như
thế thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, vị nói như thế thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Hành sự sai Pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, vị nói như thế
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[438] Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự,
có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị
giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên nhân y phục, vì
nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật dụng là dược
phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh, vì nguyên
nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường;” vị nói thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[439] Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có
ý định làm xấu hổ vị chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được
chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới vì nguyên
nhân y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên
nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân
cung kỉnh, vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân
cúng dường;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[440] Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[441] Vị nói về vị đang giáo giới theo thói thường vì nguyên nhân
y phục, vì nguyên nhân vật thực, vì nguyên nhân chỗ trú ngụ, vì nguyên nhân vật
dụng là dược phẩm trị bệnh, vì nguyên nhân tôn vinh, vì nguyên nhân cung kỉnh,
vì nguyên nhân kính trọng, vì nguyên nhân đảnh lễ, vì nguyên nhân cúng dường; vị
bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ tư
25. Điều học thứ năm (Cho y đến
tỳ-khưu ni)
[442] Câu chuyện về vị tỳ-khưu nọ. Sự quy định lần thứ nhất
[442] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthi. Có vị tỳ khưu ni nọ cũng đi khất thực ở con đường ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này sư tỷ, hãy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.
Vị ni ấy cũng đã nói như vầy:
- Thưa ngài, hãy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.
Do sự gặp gỡ thường xuyên, họ đã trở nên thân thiết.
Vào lúc bấy giờ, y của hội chúng được chia ra. Khi ấy, vị tỳ khưu
ni ấy sau khi đi nghe giáo giới đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh
lễ vị tỳ khưu ấy rồi đứng ở một bên. Vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy
đang đứng một bên điều này:
- Này sư tỷ, đây là phần chia y của tôi; cô nên nhận lấy.
- Thưa ngài, xin vâng. Y của tôi đã tàn tệ.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã cho y đến vị tỳ khưu ni ấy. Ngay cả y của
vị tỳ khưu ấy cũng đã tàn tệ. Các tỳ khưu đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, bây giờ hãy làm y của đại đức đi.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại cho y đến tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi cho y đến tỳ khưu ni, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này tỳ khưu, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ
thân quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều
gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng
người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cho y đến tỳ
khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các
ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cho y đến tỳ khưu ni
không phải là thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này
đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[443] Sự quy định them
[443] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đưa y ra trao đổi với các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại không đưa y ra trao đổi với chúng
tôi?
Các tỳ khưu đã nghe được các tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy,
đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đưa ra trao đổi với năm hạng là tỳ
khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni. Này các tỳ khưu, ta cho
phép đưa ra trao đổi với năm hạng này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nào cho y đến tỳ khưu ni không phải là
thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.”
[444] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có
liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước)
tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Ngoại trừ sự trao đổi: trừ ra sự trao đổi, vị cho (y) thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
[445] Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ
thân quyến, vị cho y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị cho y thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị cho
y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.
Vị cho y đến cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ sự trao đổi.
Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến thì vô tội.
[446] Với vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, sự trao đổi vật lớn bằng
vật nhỏ hoặc là vật nhỏ bằng vật lớn, vị tỳ khưu ni lấy do sự thân thiết, vị ni
lấy trong chốc lát, vị cho vật dụng khác ngoại trừ y, (cho đến) cô ni tu tập sự,
(cho đến) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ năm
26. Điều học thứ sáu (May y
cho tỳ-khưu ni)
[447] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định
[447] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Udāyi là rành rẽ làm công việc may y. Có vị tỳ khưu ni nọ đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, tốt thay ngài đại đức hãy may y cho tôi.
Sau đó, đại đức Udāyi đã may y cho tỳ khưu ni ấy, sau khi khéo
nhuộm, khéo sửa soạn, đã vẽ lên hình ảnh gợi cảm ở giữa,[8] rồi gấp lại, và để
riêng. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã nói
với đại đức Udāyi điều này:
- Thưa ngài, y ấy đâu rồi?
- Này sư tỷ, hãy mang đi và để riêng y này còn được gấp như vầy.
Khi nào hội chúng tỳ khưu ni đi đến nghe giáo giới, khi ấy hãy khoác y này lên
và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã mang đi và để riêng y ấy còn được gấp
như thế. Đến khi hội chúng tỳ khưu ni đi đến nghe giáo giới, khi ấy mới khoác y
ấy lên và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này thật là quá quắt, trơ trẽn, vô liêm sĩ bởi
vì dám vẽ hình ảnh gợi cảm lên trên y?
Các tỳ khưu ni đã nói như vầy:
- Việc làm này là của ai?
- Là của ngài đại đức Udāyi.
- Hình ảnh như thế này của những kẻ quá quắt, trơ trẽn, vô liêm
sĩ không thể trưng bày, phải chăng là của ngài đại đức Udāyi?
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại may y cho tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi may y cho tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
- Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân
quyến?
- Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.
- Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều
gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng
người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại may y cho tỳ
khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các
ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào may y hoặc bảo may y
cho tỳ khưu ni không phải là thân quyến thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[448] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự
liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước)
tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
May: vị tự mình may thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng
mũi kim đâm.
Bảo may: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) may nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một)
tội pācittiya (ưng đối trị).
[449] Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ
thân quyến, vị may y hoặc bảo may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị may y hoặc bảo
may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị may
y hoặc bảo may y thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị may y hoặc bảo may y cho cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến thì vô tội.
[450] Trường hợp vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, vị may hoặc bảo
may vật dụng khác ngoại trừ y, (trường hợp) cô ni tu tập sự, (trường hợp) sa di
ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ sáu
27. Điều học thứ bảy (Hẹn trước
rồi đi chung đường xa với tỳ-khưu ni)
[451] Câu chuyện về tỳ-khưu Upananda. Sự quy định lần thứ nhất
[451] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống y như chúng ta đi dạo với vợ, các sa-môn Thích tử này
cũng đi dạo với các tỳ khưu ni y như thế.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi đi chung
đường xa với các tỳ khưu ni?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi hẹn trước rồi đi
chung đường xa với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi hẹn trước rồi đi
chung đường xa với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không
đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu,
các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước
rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni ngay cả từ làng này sang làng khác[9]
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy
định cho các tỳ khưu như thế.
[452] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni bị cướp. Sự quy định them
[452] Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthi. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy sau khi nhìn thấy các tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Chúng tôi sẽ cùng đi với các ngài đại đức.
- Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi đi chung đường xa
với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các cô hãy đi trước hoặc là chúng tôi sẽ đi trước.
- Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quý. Chính
các ngài đại đức hãy đi trước.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi đi sau ở giữa đường đã bị bọn
đạo tặc cướp giật còn bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến
thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể
lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi
bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trên con đường cần phải đi chung với
đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, sau khi hẹn trước
được đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ
biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi đi chung đường
xa với vị tỳ khưu ni ngay cả (đi) từ làng này sang làng khác thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy
là: con đường cần phải đi chung với đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm,
có sự kinh hoàng. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
[453] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hãy
đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này sư tỷ, chúng ta
hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách
đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo mỗi một khoảng
giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị) theo từng khoảng cách nửa yojana.[10]
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Con đường cần phải đi chung với đoàn xe nghĩa là không có đoàn xe
không thể đi được.
Có sự nguy hiểm nghĩa là trên con đường ấy chỗ cắm trại của bọn cướp
được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được
thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trên con đường ấy dân chúng bị giết bởi
bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy. Sau khi đi đến
chỗ có sự kinh hoàng, khi nhìn thấy không có sự kinh hoàng thì nên giải tán
(nói rằng): “Này các sư tỷ, hãy đi đi.”
[454] Khi đã hẹn trước, nhận biết là đã hẹn trước, vị đi chung đường
xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại
trừ có duyên cớ.
Khi đã hẹn trước, có sự hoài nghi, vị đi chung đường xa ngay cả từ
làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên
cớ.
Khi đã hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị đi chung đường
xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại
trừ có duyên cớ.
Vị tỳ khưu hẹn trước còn vị tỳ khưu ni không hẹn trước, thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đã hẹn trước, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước thì vô tội.
[455] Khi có duyên cớ, các vị sau khi không hẹn trước rồi đi, vị
tỳ khưu ni hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị đi ngoài giờ hẹn ước,
trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ bảy
28. Điều học thứ tám (Hẹn trước
rồi đi chung thuyền với tỳ-khưu ni)
[456] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[456] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống y như chúng ta du ngoạn với vợ trên một chiếc thuyến, các
sa-môn Thích tử này sau khi hẹn trước rồi du ngoạn với các tỳ khưu ni trên một
chiếc thuyến y như thế.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một
chiếc thuyền với các tỳ khưu ni?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi hẹn trước rồi cùng
lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi sau khi hẹn trước rồi
cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này
các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau
khi hẹn trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược
giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này
đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[457] Câu chuyện về các tỳ-khưu ni bị cướp. Sự quy định them
[457] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthi. Khoảng giữa đường, có con sông cần phải vượt qua. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
- Chúng tôi sẽ vượt qua cùng với các ngài đại đức.
- Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi cùng lên một chiếc
thuyền với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các cô hãy vượt qua trước hoặc là chúng tôi sẽ
vượt qua trước.
- Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quý. Chính
các ngài đại đức hãy vượt qua trước.
Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi vượt qua sau đã bị bọn đạo tặc
cướp giật còn bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi
và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy
cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức
Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu
rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép khi vượt ngang qua (sông) sau khi
hẹn trước được lên chung một chiếc thuyền với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ
khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn
trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc
đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ vượt ngang qua
(sông).”
[458] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hãy
lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hãy lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hãy lên
(thuyền). Này sư tỷ, chúng ta hãy lên (thuyền). Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày
mai chúng ta hãy lên (thuyền)” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi vị tỳ khưu ni đã lên (thuyền), vị tỳ khưu lên (thuyền) thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị). Khi vị tỳ khưu đã lên (thuyền), vị tỳ khưu ni lên
(thuyền) thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai cùng lên (thuyền) thì phạm tội
pācittiya.
Đi ngược giòng: đi lên phía trên.
Đi xuôi giòng: đi xuống phía dưới.
Ngoại trừ vượt ngang qua (sông): trừ ra sự vượt ngang qua (sông).
Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong
làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) theo từng khoảng cách
nửa yojana.
[459] Khi đã hẹn trước, nhận biết là đã hẹn trước, vị lên chung một
chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Khi đã hẹn trước, có sự hoài nghi, vị lên chung một chiếc thuyền
đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại
trừ vượt ngang qua (sông).
Khi đã hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị lên chung một
chiếc thuyền đi ngược giòng hoặc đi xuôi giòng thì phạm tội pācittiya (ưng đối
trị), ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Vị tỳ khưu hẹn trước còn vị tỳ khưu ni không hẹn trước, thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đã hẹn trước, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước thì vô tội.
[460] Khi vượt ngang qua (sông), các vị không hẹn trước rồi lên
(thuyền), vị tỳ khưu ni hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị lên
(thuyền) ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu
tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ tám
29. Điều học thứ chín (Vật thực
được tỳ-khưu ni môi giới)
[461] Câu chuyện về tỳ-khưu ni Thullanandā. Sự quy định lần thứ
nhất
[461] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị thường tới lui với gia đình nọ và là vị nhận vật thực thường kỳ. Và các tỳ khưu trưởng lão đã được gia chủ ấy thỉnh mời. Khi ấy vào buổi sáng, tỳ khưu ni Thullanandā đã mặc y, cầm y bát, đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã nói với gia chủ ấy điều này:
- Này gia chủ, việc gì mà nhiều vật thực loại cứng loại mềm này
được chuẩn bị vậy?
- Thưa ni sư, tôi đã thỉnh mời các vị trưởng lão.
- Này gia chủ, các trưởng lão của ngươi là những vị nào vậy?
- Ngài Sārīputta, ngài Mahāmoggallāna, ngài Mahākaccāna, ngài
Mahākoṭṭhita, ngài Mahākappina, ngài Mahācunda, ngài Anuruddha, ngài Revata,
ngài Upāli, ngài Ānanda, ngài Rāhula.
- Này gia chủ, việc gì khiến ngươi lại thỉnh mời những tép riu
trong khi các khổng long đang còn tồn tại?
- Thưa ni sư, những vị nào là các khổng long của cô vậy?
- Ngài Devadatta, ngài Kokālika, ngài Katamorakatissako con trai
của Khaṇḍadevī, ngài Samuddadatto.
Lời nói này của tỳ khưu ni Thullanandā đã bị gián đoạn nửa chừng
và các tỳ khưu trưởng lão đã đi vào.
- Này gia chủ, có đúng là các khổng long đã được ngươi thỉnh mời
không?
- Này ni sư, ngay mới đây cô đã gọi các ngài đại đức là những tép
riu, bây giờ là các khổng long. Rồi đã kéo ra khỏi nhà và chấm dứt phần bữa ăn
thường kỳ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao Devadatta dầu biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho
vẫn thọ thực?
…(như trên)…
- Này Devadatta, nghe nói ngươi biết vật thực được tỳ khưu ni môi
giới cho vẫn thọ thực, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi biết vật thực được tỳ khưu ni môi
giới cho vẫn thọ thực vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin
cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ
biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới
cho vẫn thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được
đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[462] Câu chuyện về vị tỳ-khưu đi thăm thân quyến. Sự quy định
them
[462] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia ở thành Rājagaha đã đi đến gia đình thân quyến. Dân chúng (nói rằng): “Lâu lắm ngài đại đức mới đến,” rồi đã làm bữa ăn thịnh soạn. Có vị tỳ khưu ni thường lui tới với gia đình ấy đã nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, hãy dâng bữa ăn đến ngài đại đức.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán thọ
thực khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho” trong khi ngần ngại đã
không thọ nhận và không thể đi khất thực nên bữa ăn đành phải nhịn. Sau đó, vị
tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự
kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ ta cho
phép thọ thực dầu biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho. Và này các tỳ
khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào biết thức ăn
được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.”
[463] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ấy,
hoặc vị ni ấy thông báo.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Môi giới cho nghĩa là đối với những người trước đây không có ý định
dâng cúng, không có ý định tiếp đãi, vị ni ấy môi giới rằng: “Ngài là vị trì tụng,
ngài là vị nghe nhiều, ngài là vị trì Kinh, ngài là vị thông Luật, ngài là vị
Pháp sư, hãy dâng cúng đến ngài, hãy phục vụ ngài.”
Thức ăn nghĩa là loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.
Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ: trừ ra có sự chuẩn bị
trước bởi gia chủ.
Có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ nghĩa là các thân quyến, hoặc
(những người) đã nói lời thỉnh cầu, hoặc đã được chuẩn bị thường kỳ.
Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ
ăn,” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi một lần nuốt xuống thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
[464] Khi được môi giới cho, nhận biết đã được môi giới cho, vị
thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi
gia chủ.
Khi được môi giới cho, có sự hoài nghi, vị thọ thực thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Khi được môi giới cho, (lầm)
tưởng là không được môi giới cho, vị thọ thực thì vô tội ngoại trừ có sự chuẩn
bị trước bởi gia chủ.
Được vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng môi giới cho, vị thọ
thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Khi không được môi giới cho, (lầm) tưởng là đã được môi giới cho,
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi không được môi giới cho, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Khi không được môi giới cho, nhận biết là không được môi giới cho
thì vô tội.
[465] Khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, cô ni tu tập sự môi
giới cho, vị sa di ni môi giới cho, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật
thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ chín
30. Điều học thứ mười (Ngồi ở
nơi kín đáo với tỳ-khưu ni)
[466] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định
[466] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đại đức Udāyi đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni ấy thường xuyên đi đến gặp đại đức Udāyi. Đại đức Udāyi cũng thường xuyên đi đến gặp tỳ khưu ni ấy.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã cùng với tỳ khưu ni ấy một nam
một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi
ở nơi kín đáo?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi
ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một
nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin
cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có
đức tin. …(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu nào cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[467] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội
chúng.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và vị tỳ khưu ni.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.
Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị
che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.
Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng)
bình thường.
Ngồi: Khi vị tỳ khưu ni đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong khi vị tỳ khưu đang ngồi, vị tỳ
khưu ni ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Hoặc cả hai
đang ngồi hoặc cả hai đang nằm thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[468] Chỗ kín đáo, nhận biết là chỗ kín đáo, vị ngồi xuống một
nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ kín đáo, có sự hoài nghi, vị ngồi xuống một nam một nữ thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ không kín đáo, vị ngồi xuống một
nam một nữ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Chỗ không kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ kín đáo, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Chỗ không kín đáo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Chỗ không kín đáo, nhận biết là chỗ không kín đáo thì vô tội.
[469] Bài kệ tóm lược phần Giáo Giới
[469] Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười
Phần Giáo Giới là phần thứ ba
Tóm lược phần này:
Chưa chỉ định, trời lặn,
ni viện, vì tài vật,
cho y, vị may y,
hẹn hò đi đường xa,
chung thuyền, vị thọ thực
vật thực ni môi giới,
một nam và một nữ,
các điều ấy là mười.
[1] Ācāra-gocara: hành xứ, tức
là sở hành và các chỗ đi lại, thân cận. Nghĩa là không tà mạng như là cho tre,
v.v... và không đi đến các nơi không nên đi như gái điếm, v.v... Gia đình có đầy
đủ đức tin được xem là gocara (xứ), tức là nơi có thể đi đến (ghi lại theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa).
[2] Khi còn tại gia, không có
đụng chạm cơ thể với tỳ khưu ni, không thực hiện việc đôi lứa với các cô ni tu
tập sự và các sa di ni (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[3] Để khỏi bị phạm tội khi
thuyết Pháp đến người nữ (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[4] “Samaggattha bhaginiyoti”
được ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Sabbā āgatthatāti” nên được dịch như
trên thay vì “Các cô chị có được hợp nhất không?”
[5] “Vaggamhāyyāti” thay vì dịch
“Thưa ngài, chúng tôi là nhóm” chúng tôi dịch như trên cho phù hợp mạch văn.
[6] Vị đang đọc tụng phần tám
Trọng Pháp bằng Pāli (theo ngài Buddhaghosa).
[7] Vị đang đọc phần chú giải
của phần Pāli văn của tám Trọng Pháp (theo ngài Buddhaghosa).
[8] Chú giải cho biết rằng:
“Sau khi nhuộm y, đại đức Udāyi đã dùng nhiều màu sắc phác họa hình ảnh người
nam và người nữ đang thực hiện việc đôi lứa.”
[9] Gāmantaraṃ = gāma-antaraṃ:
khoảng giữa của các làng.
[10] Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
Xem tiếp Phần 4. Vật Thực - Quay về Mục Lục Chương 8 - Xem tiếp Chương 9
Quay về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 2
0 Comments