Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 2
Chương 8. Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
Phần 9. Báu Vật
Mục Lục
83. Điều học thứ nhất (Đi vào
hậu cung của đức vua)
[731] Câu chuyện về đức vua Pasenadi xứ Kosala
[732] Câu chuyện về trưởng lão Ānanda
[733] Mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu cung của đức vua
84. Điều học thứ nhì (Nhặt lấy
vật quý giá)
[738] Câu chuyện về vị tỳ-khưu nọ. Sự quy định lần thứ nhất
[739] Câu chuyện về bà Visākhā. Sự quy định thêm lần thứ nhất
[740] Câu chuyện về gia chủ Anāthapiṇḍika. Sự quy định thêm lần
thứ nhì
85. Điều học thứ ba (Đi vào
làng vào lúc sái thời)
[744] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[745] Sự quy định thêm lần thứ nhất... Sự quy định thêm lần thứ
ba
86. Điều học thứ tư (Làm ống đựng
kim bằng xương, ngà, sừng)
[751] Câu chuyện về nhiều tỳ-khưu. Sự quy định
87. Điều học thứ năm (Giường
ghế cao)
[755] Câu chuyện về tỳ-khưu Upananda. Sự quy định
88. Điều học thứ sáu (Giường
ghế độn bông gòn)
[759] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định
89. Điều học thứ bảy (Kích thước
tọa cụ)
[763] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ
nhất
[764] Câu chuyện về tỳ-khưu Udāyi. Sự quy định thêm
90. Điều học thứ tám (Kích thước
y đắp ghẻ)
[768] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định
91. Điều học thứ chín: (Kích
thước vải choàng tắm mưa)
[772] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định
92. Điều học thứ mười (Kích
thước y của đức Thiện Thệ)
[776] Câu chuyện về các tỳ-khưu Nanda. Sự quy định
[779] Bài kệ tóm lược phần Báu Vật
[780] Tổng kết chương Ưng Đối Trị. Bài kệ tóm lược
Nội Dung
83. Điều học thứ nhất (Đi vào
hậu cung của đức vua)
[731] Câu chuyện về đức vua Pasenadi
xứ Kosala
[731] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã ra lệnh cho người giữ công viên rằng:
- Này khanh, hãy đi và làm sạch sẽ công viên. Ta sẽ đi đến công
viên.
- Tâu đại vương, xin vâng.
Rồi người giữ công viên nghe lệnh đức vua Pasenadi xứ Kosala,
trong lúc làm sạch sẽ công viên đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ,
sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã tâu
với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này:
- Tâu bệ hạ, công viên đã được sạch sẽ. Tuy nhiên, đức Thế Tôn
đang ngồi ở đó.
- Này khanh, hãy vậy đi. Chúng ta sẽ thăm viếng đức Thế Tôn.
Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã đi đến công viên và đã đi đến
gần đức Thế Tôn. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đang ngồi thăm viếng đức Thế
Tôn. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy đang ngồi thăm viếng
đức Thế Tôn, sau khi nhìn thấy đã hoảng sợ đứng lại. Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ
Kosala đã khởi ý điều này: “Theo như việc người đàn ông này thăm viếng đức Thế
Tôn thì không phải là kẻ ác” nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh
lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, nam cư sĩ ấy do sự tôn kính đức
Thế Tôn đã không cúi lạy đức vua Pasenadi xứ Kosala cũng không đứng dậy chào.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã không được hài lòng (nghĩ rằng): “Tại sao
người đàn ông này lại không cúi lạy cũng không đứng dậy chào khi ta đi đến?”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhận biết sự không hài lòng của đức vua Pasenadi xứ Kosala
nên đã nói với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này:
- Tâu đại vương, vị nam cư sĩ này là vị nghe nhiều, kinh điển đã
được truyền thừa, và tham ái trong các dục đã được đoạn tận.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Nam cư sĩ
này quả không phải là thấp thỏi. Đức Thế Tôn còn khen ngợi người này” rồi đã
nói với nam cư sĩ ấy điều này:
- Này nam cư sĩ, ngươi có thể nói lên vì việc ấy có lợi ích.
- Tâu bệ hạ, rất đúng.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi
đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng
bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức
Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[732] Câu chuyện về trưởng lão
Ānanda
[732] Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala đang ngự ở tầng
trên của tòa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy nam cư sĩ ấy tay
cầm dù đang đi ở trên đường, sau khi nhìn thấy đã ra lệnh mời đến rồi đã nói điều
này:
- Này nam cư sĩ, nghe nói ngươi nghe nhiều, kinh điển được truyền
thừa. Này nam cư sĩ, tốt thay ngươi hãy nói Pháp cho các cung phi của trẫm.
- Tâu bệ hạ, điều thần biết được là nhờ vào các ngài đại đức.
Chính các ngài đại đức sẽ nói Pháp cho các cung phi của bệ hạ.
Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala (nghĩ rằng): “Nam cư sĩ đã nói
đúng” nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với
đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ thị một vị tỳ khưu
là vị sẽ nói Pháp cho các cung phi của trẫm.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho đức vua Pasenadi xứ Kosala bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi
đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng
bài Pháp thoại, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức
Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, như thế thì ngươi hãy nói Pháp cho các cung phi của
đức vua.
- Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã đi vào lần này lần
khác và đã nói Pháp cho các cung phi của đức vua.
Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Ānanda đã mặc y cầm y bát đi đến tư
dinh của đức vua Pasenadi xứ Kosala. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ
Kosala đang nằm cùng với hoàng hậu Mallikā. Hoàng hậu Mallikā đã nhìn thấy đại
đức Ānanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã vội vàng đứng lên. Tấm
hoàng bào sáng chói đã rơi xuống. Khi ấy, đại đức Ānanda ngay tại chỗ đó đã
quay lại, đi trở về tu viện, và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Ānanda khi chưa được báo tin trước lại đi vào hậu
cung của đức vua?
…(như trên)…
- Này Ānanda, nghe nói ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi
vào hậu cung của đức vua, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Ānanda, vì sao ngươi khi chưa được báo tin trước lại đi vào
hậu cung của đức vua vậy? Này Ānanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …
(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
[733] Mười điều nguy hiểm
trong việc đi vào hậu cung của đức vua
[733] Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi
vào hậu cung của đức vua. Thế nào là mười?
Này các tỳ khưu, trường hợp đức vua đang ngồi với hoàng hậu. Vị tỳ
khưu đi vào nơi ấy. Hoặc là khi nhìn thấy vị tỳ khưu hoàng hậu nở nụ cười, hoặc
là khi nhìn thấy hoàng hậu vị tỳ khưu nở nụ cười. Trong trường hợp ấy, đức vua
khởi ý như vầy: “Rõ ràng giữa những người này đã xảy ra chuyện, hoặc họ sẽ làm
ra chuyện.” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ nhất trong việc đi vào hậu
cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua có nhiều phận sự
có nhiều công việc cần phải làm, sau khi đi đến với người đàn bà nào đó rồi
không nhớ. Do việc ấy, cô ấy mang thai. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như
vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc
làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ hai trong việc
đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua
có vật báu nào đó bị mất trộm. Trong trường hợp ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở
đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của
vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ ba trong việc đi vào hậu
cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức vua
các chuyện nội vụ đang được giữ kín lại bị tiết lộ ra bên ngoài. Trong trường hợp
ấy, đức vua khởi ý như vầy: “Ở đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị
xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều
nguy hiểm thứ tư trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, trong hậu cung của đức
vua, hoặc là con muốn giết cha hoặc là cha muốn giết con. Họ khởi ý như vầy: “Ở
đây, không có người nào khác đi vào ngoại trừ vị xuất gia; có thể là việc làm của
vị xuất gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ năm trong việc đi vào
hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị
thấp lên địa vị cao. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức
vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ
khưu, đây là điều nguy hiểm thứ sáu trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua đưa người có địa vị
cao xuống địa vị thấp. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy:
“Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các
tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ bảy trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội
không đúng thời. Những người không hài lòng với điều ấy khởi ý như vầy: “Đức
vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất gia?” Này các tỳ
khưu, đây là điều nguy hiểm thứ tám trong việc đi vào hậu cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, đức vua điều động quân đội
đúng thời, giữa đường lại quay trở về. Những người không hài lòng với điều ấy
khởi ý như vầy: “Đức vua thân cận với vị xuất gia; có thể là việc làm của vị xuất
gia?” Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ chín trong việc đi vào hậu
cung của đức vua.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, hậu cung của đức vua là
đông đúc với những voi, đông đúc với những ngựa, đông đúc với những xe, các sắc
thinh hương vị xúc đều gợi lên sự đắm nhiễm không thích hợp cho vị xuất gia.
Này các tỳ khưu, đây là điều nguy hiểm thứ mười trong việc đi vào hậu cung của
đức vua.
Này các tỳ khưu, đây là mười điều nguy hiểm trong việc đi vào hậu
cung của đức vua.
[734] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Ānanda bằng nhiều
phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, về sự khó khăn trong việc ăn uống,
...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào khi chưa được báo tin trước mà vượt qua ngưỡng cửa (phòng ngủ)
của đức vua dòng sát-đế-lỵ đã được đội lên vương miện lúc đức vua chưa đi khỏi
lúc báu vật (hoàng hậu) chưa lui ra thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[735] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Dòng sát-đế-lỵ nghĩa là hậu duệ thuần khiết được khéo sanh ra từ
cả hai bên là từ dòng bên mẹ và từ dòng bên cha cho đến bảy thế hệ tổ tiên,
không bị gièm pha, không bị chỉ trích khi nói về nguồn gốc.
Đã được đội lên vương miện: đã được đăng quang với lễ phong vương
của dòng sát-đế-lỵ.
Lúc đức vua chưa đi khỏi: đức vua chưa ra khỏi phòng ngủ
Lúc báu vật (hoàng hậu) chưa lui ra: hoàng hậu chưa ra khỏi phòng
ngủ hoặc cả hai chưa ra khỏi.
Chưa được báo tin trước: chưa được thỉnh mời (đi vào).
Ngưỡng cửa nghĩa là ngạch cửa của phòng ngủ được đề cập đến.
Phòng ngủ nghĩa là bất cứ nơi nào được quy định là chỗ nằm của đức
vua, thậm chí chỉ được bao quanh bằng khung màn che.
Vượt qua ngưỡng cửa: vị vượt qua ngạch cửa bước thứ nhất thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác). Vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[736] Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, vị
vượt qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, vị vượt qua ngưỡng cửa
thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đã được báo tin, vị vượt
qua ngưỡng cửa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã được báo tin, nhận biết là đã được báo tin thì vô tội.
[737] Khi đã được báo tin, đức vua không phải là dòng sát-đế-lỵ,
chưa được đăng quang với lễ phong vương của dòng sát-đế-lỵ, đức vua đã ra khỏi
phòng ngủ, hoàng hậu đã ra khỏi phòng ngủ, hoặc cả hai đã ra khỏi phòng ngủ,
không phải ở trong phòng ngủ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ nhất
84. Điều học thứ nhì (Nhặt lấy
vật quý giá)
[738] Câu chuyện về vị tỳ-khưu
nọ. Sự quy định lần thứ nhất
[738] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ tắm ở giòng sông Aciravatī. Có người bà-la-môn nọ sau khi bỏ xuống trên bờ túi xách có năm trăm (đồng tiền) rồi tắm ở giòng sông Aciravatī, sau đó đã quên lửng rồi ra đi. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đây là túi xách của người bà-la-môn ấy, chớ để bị mất cắp” rồi đã giữ lấy. Sau đó, người bà-la-môn ấy khi nhớ ra đã vội vã chạy trở lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này ông, vậy ông có nhìn thấy túi xách của tôi không?
- Này Bà-la-môn, đây này. Rồi đã trao cho.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã khởi ý điều này: “Bằng phương kế gì
để ta khỏi phải biếu vị tỳ khưu này một bình bát đầy?” (nên đã nói rằng):
- Này ông, của tôi không phải là năm trăm, của tôi là một ngàn.
Sau khi giữ lại rồi đã thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu
viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như
trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại nhặt lấy vật quý giá?
…(như trên)…
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi nhặt lấy vật quý giá, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại nhặt lấy vật quý giá vậy? Này kẻ
rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay
làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các
tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhặt lấy
hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các
tỳ khưu như thế.
[739] Câu chuyện về bà Visākhā.
Sự quy định thêm lần thứ nhất
[739] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có lễ hội. Dân chúng
chưng diện trang điểm đi đến công viên. Bà Visākhā mẹ của Migāra cũng chưng diện
trang điểm (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến công viên.” Sau khi đi ra khỏi làng (nghĩ
rằng): “Ta sẽ làm gì sau khi đi đến công viên? Hay là ta nên thăm viếng đức Thế
Tôn?” rồi đã tháo ra đồ trang sức, dùng thượng y buộc lại thành gói rồi trao
cho người tớ gái (nói rằng):
- Này em, hãy cầm lấy gói đồ này.
Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau
khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy,
thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra
đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy,
thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā
mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu
quanh, rồi ra đi. Khi ấy, cô tớ gái ấy đã quên lửng gói đồ ấy và ra đi. Các tỳ
khưu đã nhìn thấy rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, như thế thì các ngươi hãy nhặt lấy và để riêng
ra.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi.” Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ ở trong khuôn viên tu viện.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[740] Câu chuyện về gia chủ
Anāthapiṇḍika. Sự quy định thêm lần thứ nhì
[740] Vào lúc bấy giờ, trong xứ Kāsī có ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Và vị gia chủ ấy đã dặn dò viên quản lý rằng: “Nếu các ngài đại đức đi đến, ngươi có thể dọn bữa ăn.” Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi đi du hành trong xứ Kāsī đã đi đến ngôi làng là nơi thương mãi của gia chủ Anāthapiṇḍika. Người đàn ông ấy đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các vị tỳ khưu ấy và đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin các ngài đại đức hãy nhận lời bữa ăn của gia
chủ vào ngày mai.
Các vị tỳ khưu ấy đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, khi
trải qua đêm ấy người đàn ông ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng
loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ. Vị ấy sau khi tháo ra chiếc
nhẫn đeo ngón tay rồi đã dâng bữa ăn đến các vị tỳ khưu ấy (nói rằng):
- Các ngài đại đức sau khi thọ thực xin cứ việc đi. Tôi cũng sẽ
đi làm công việc.
Rồi đã quên lửng chiếc nhẫn đeo ngón tay và ra đi. Các vị tỳ khưu
sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Nếu chúng ta đi, chiếc nhẫn đeo ngón tay này sẽ
bị mất trộm” nên đã ngồi lại ngay tại chỗ ấy. Sau đó, người đàn ông ấy khi xong
công việc quay trở lại đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy nên đã nói điều này:
- Thưa các ngài, tại sao các ngài đại đức ngồi lại ngay tại chỗ
này?
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho người đàn ông ấy
rồi sau khi đi đến thành Sāvatthi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy
nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý
giá hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn
viên chỗ ngụ rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi.” Và
này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào
nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được xem là quý giá thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên
chỗ ngụ. Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật được
xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ nên để
riêng ra (nghĩ rằng): ‘Là của ai, người ấy sẽ đem đi.’ Đây là điều đúng đắn
trong trường hợp ấy.”
[741] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Vật quý giá nghĩa là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc pha lê, ngọc
xa-cừ, đá quý, ngọc san hô, vàng, bạc, hồng ngọc, ngọc mắt mèo; vật này gọi là
vật quý giá.
Vật được xem là quý giá nghĩa là vật gì được dân chúng ưa chuộng
và bảo quản,vật này gọi là vật được xem là quý giá.
Ngoại trừ trong khuôn viên tu viện hoặc trong khuôn viên chỗ ngụ:
trừ ra khuôn viên tu viện (và) khuôn viên chỗ ngụ.
Khuôn viên tu viện nghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đã
được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.
Khuôn viên chỗ ngụ nghĩa là bên trong chỗ ngụ đối với chỗ ngụ đã
được rào lại, là vùng phụ cận đối với chỗ ngụ không được rào lại.
Nhặt lấy: tự mình nhặt lấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo nhặt lấy: bảo người khác nhặt lấy thì phạm tội pācittiya (ưng
đối trị).
[742] Vị tỳ khưu sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá
hoặc vật được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên
chỗ ngụ nên để riêng ra: sau khi ghi nhận hình dáng hoặc đặc điểm rồi để riêng
ra và nên thông báo rằng: “Ai có vật bị mất, người ấy hãy đi đến.” Trong trường
hợp ấy, nếu có người đi đến nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, vật của đạo
hữu như thế nào?” Nếu mô tả đúng hình dáng hoặc đặc điểm thì nên trao cho. Nếu
không mô tả đúng thì nên nói rằng: “Này đạo hữu, hãy tìm kiếm.” Vị sắp sửa rời
khỏi trú xứ ấy, nên trao lại tận tay của những vị tỳ khưu thích hợp ở tại nơi ấy
rồi ra đi. Nếu không có những vị tỳ khưu thích hợp, nên trao lại tận tay của những
vị gia chủ thích hợp ở tại nơi ấy rồi ra đi.
Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lý trong
trường hợp ấy.
[743] Vị sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy vật quý giá hoặc vật
được xem là quý giá ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong khuôn viên chỗ ngụ
rồi để riêng ra (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ đem đi,” vị lấy vật được
xem là quý giá theo lối thân thiết, vị lấy trong một thời hạn, vị nghĩ là vật
quăng bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ nhì
85. Điều học thứ ba (Đi vào
làng vào lúc sái thời)
[744] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ nhất
[744] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện kinh dị, chuyện chiến trường, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ, chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn bà, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu), chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán về đại dương, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi vào làng lúc sái thời rồi ngồi
ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức
vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện kinh dị,
chuyện chiến trường, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện
giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ,
chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn
bà, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu),
chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán
về đại dương, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy giống
như các người tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi vào làng lúc sái thời rồi
ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức
vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi vào làng lúc sái thời rồi
ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức
vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy,
có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi vào làng lúc sái
thời rồi ngồi ở đám đông nói chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là:
chuyện đức vua, ...(như trên)... chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy
hay là như vầy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …
(như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị
tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và
điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[745] Sự quy định thêm lần thứ
nhất... Sự quy định thêm lần thứ ba
[745] Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong lúc đi đến thành Sāvatthi thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin hãy vào.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào
làng lúc sái thời” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn đạo tặc đã cướp
đoạt các vị tỳ khưu ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và
đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại
rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã
thông báo. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị
tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo thì phạm tội pācittiya
(ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu
như thế.
[746] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến thành
Sāvatthi thuộc xứ Kosala đã đi đến gần ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân
chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói điều này:
- Thưa ngài, xin hãy vào.
Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào
làng lúc sái thời không thông báo” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Bọn
đạo tặc đã cướp đoạt vị tỳ khưu ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành
Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng lúc sái thời khi đã
thông báo vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều
học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ
khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức
Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[747] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn. Vị tỳ khưu
khác (nghĩ rằng): “Ta sẽ mang lại lửa” rồi đi đến làng. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy
(nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đi vào làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện”
rồi trong lúc ngần ngại đã không đi vào. Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi
bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như
thế ta cho phép đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện.
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu
nào đi vào làng lúc sái thời không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.”
[748] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu hiện diện nghĩa là có thể có sự thông báo để đi vào
(làng).
Vị tỳ khưu không hiện diện nghĩa là không thể có sự thông báo để
đi vào (làng).
Lúc sái thời nghĩa là từ lúc đã quá nửa ngày cho đến rạng đông
(ngày hôm sau).
Đi vào làng: vị vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại thì
phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị đi vào vùng phụ cận của ngôi làng không được
rào lại thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế: trừ ra trường
hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
[749] Vào lúc sái thời, nhận biết là vào lúc sái thời, vị đi vào
làng không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị)
ngoại trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc sái thời, có sự hoài nghi, vị đi vào làng không thông báo
vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ trường hợp
có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc sái thời, (lầm) tưởng là vào lúc hợp thời, vị đi vào làng
không thông báo vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại
trừ trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế.
Vào lúc hợp thời, (lầm) tưởng là lúc sái thời, phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
Vào lúc hợp thời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc hợp thời, nhận biết là lúc hợp thời thì vô tội.
[750] Trong trường hợp có việc cần làm khẩn cấp như thế, có thông
báo vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng), không có vị tỳ khưu hiện diện rồi
đi vào (làng) không có thông báo, vị đi đến tu viện ở giữa làng, vị đi đến ni
viện của các tỳ khưu ni, vị đi đến chỗ ngụ của các tu sĩ ngoại đạo, vị đi trở về,
con đường đi ngang qua ngôi làng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi
phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ ba
86. Điều học thứ tư (Làm ống đựng
kim bằng xương, ngà, sừng)
[751] Câu chuyện về nhiều tỳ-khưu.
Sự quy định
[751] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã được người thợ làm đồ sừng nọ thỉnh cầu rằng : “Các ngài đại đức nào có nhu cầu về ống đựng kim, tôi sẽ dâng ống đựng kim.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu nhiều ống đựng kim. Những vị có các ống đựng kim nhỏ thì yêu cầu các ống đựng kim lớn. Những vị có các ống đựng kim lớn thì yêu cầu các ống đựng kim nhỏ. Khi ấy, trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ sừng ấy không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại không biết chừng mực và yêu cầu
nhiều ống đựng kim? Người này trong lúc làm nhiều ống đựng kim cho các vị này
không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của
người này cũng phải chịu khổ sở.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều ống
đựng kim?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết chừng mực và yêu
cầu nhiều ống đựng kim, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại không biết chừng
mực và yêu cầu nhiều ống đựng kim vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người
đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học
này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo làm ống đựng kim bằng xương, hoặc bằng ngà, hoặc
bằng sừng thì (ống đựng kim ấy) nên được đập vỡ và phạm tội pācittiya (ưng đối
trị).”
[752] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Xương nghĩa là bất cứ loại xương gì.
Ngà nghĩa là ngà voi được đề cập đến.
Sừng nghĩa là bất cứ loại sừng gì.
Bảo làm: Vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên đập vỡ rồi nên sám hối tội pācittiya
(ưng đối trị).
[753] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị nhận được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[754] Trong trường hợp hột nút, đồ đánh lửa, cái khóa thắt lưng,
[1] hộp đựng thuốc cao, que bôi thuốc cao,[2] cán dao cạo, đồ gạt nước,[3] vị bị
điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ tư
87. Điều học thứ năm (Giường
ghế cao)
[755] Câu chuyện về tỳ-khưu
Upananda. Sự quy định
[755] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya nằm giường cao. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ cùng với nhiều vị tỳ khưu đã đi đến trú xá của đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin hãy đi đến. Xin đức Thế Tôn hãy nhìn xem cái giường
của con.
Khi ấy, đức Thế Tôn ngay tại chỗ ấy đã quay lại và bảo các vị tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, kẻ rồ dại cần được chỉ bảo về chỗ nằm.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Upananda con trai dòng
Sākya bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ...(như
trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trong lúc cho thực hiện giường hoặc ghế mới, vị tỳ khưu nên bảo làm chân cao
tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ[4] ngoại trừ phần khung giường ở
bên dưới. Nếu vượt quá mức ấy thì nên cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[756] Mới nghĩa là có liên quan đến việc làm (giường hoặc ghế) được
đề cập.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp (masārako),
giường xếp (bundikābaddho), giường chân cong (kulirapādako), giường có chân
tháo rời được (āhaccapādako).
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân
cong, ghế có chân tháo rời được.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo
làm.
Nên bảo làm chân cao tám ngón tay theo ngón tay của đức Thiện Thệ
ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới: trừ ra phần khung giường ở bên dưới. Vị
(tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối
trị).
[757] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[758] Vị làm theo kích thước, vị làm thấp hơn, do người khác làm
quá kích thước sau khi đạt được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm
đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ năm
88. Điều học thứ sáu (Giường
ghế độn bông gòn)
[759] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định
[759] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục
Sư cho thực hiện giường ghế độn bông gòn. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các
trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho thực hiện giường ghế độn
bông gòn giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cho thực hiện giường ghế độn
bông gòn?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cho thực hiện giường ghế độn
bông gòn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cho thực hiện giường
ghế độn bông gòn vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin
cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có
đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu nào bảo thực hiện giường ghế độn bông gòn thì (bông gòn)
nên được móc ra và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[760] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp,
giường chân cong, giường có chân tháo rời được.
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân
cong, ghế có chân tháo rời được.
Bông gòn nghĩa là có ba loại bông gòn: bông gòn từ cây, bông gòn
từ dây leo, bông gòn từ cỏ.
Bảo thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên móc ra rồi nên sám hối tội
pācittiya (ưng đối trị).
[761] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[762] Trong trường hợp vị làm đồ băng bó, dây buộc lưng, dây đeo
vai, túi đựng bát, đồ lọc nước, gối kê; sau khi đạt được (giường ghế) do người
khác làm thì móc ra rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ sáu
89. Điều học thứ bảy (Kích thước
tọa cụ)
[763] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định lần thứ nhất
[763] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các tọa cụ không theo kích thước. Các vị treo ở phía trước và phía sau của giường và của ghế. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các tọa cụ không
theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các tọa cụ không
theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các tọa cụ
không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã
có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học
này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện tọa cụ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích
thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi
theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tọa cụ) nên được cắt
bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn
quy định cho các tỳ khưu như thế.
[764] Câu chuyện về tỳ-khưu
Udāyi. Sự quy định thêm
[764] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi có thân hình to lớn. Vị ấy khi sắp đặt tọa cụ ở phía trước đức Thế Tôn cứ kéo căng ra khắp các phía rồi mới ngồi xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Udāyi điều này:
- Này Udāyi, vì sao sau khi sắp đặt tọa cụ ngươi cứ kéo căng ra
khắp các phía giống như là căng ra tấm da bị nhăn vậy?
- Bạch ngài, bởi vì theo
như tấm tọa cụ đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu thì quá nhỏ.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đường viền của tọa cụ là một gang.
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho
thực hiện tọa cụ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này
là chiều dài hai gang tay chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo
gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (tọa cụ) nên được cắt bớt
và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[765] Tọa cụ nghĩa là có đường viền được nói đến.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo
làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài
hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi, đường viền một gang theo gang tay của đức
Thiện Thệ.[5] Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội
pācittiya (ưng đối trị).
[766] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[767] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (tọa
cụ) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc
tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị
vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ bảy
90. Điều học thứ tám (Kích thước
y đắp ghẻ)
[768] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định
[768] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi,
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y đắp ghẻ đã được đức
Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Y đắp
ghẻ đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các y đắp ghẻ không theo kích
thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các y đắp ghẻ không
theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các y đắp ghẻ không
theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các y đắp ghẻ
không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm
tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã
có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học
này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện y đắp ghẻ, vị tỳ khưu nên bảo làm theo
kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai
gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (y đắp ghẻ) nên
được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[769] Y đắp ghẻ nghĩa là nhằm mục đích băng bó cho vị có ghẻ hoặc
mụt nhọt hoặc vết thương hoặc bệnh lở loét ở phía dưới lỗ rún và ở phía trên đầu
gối.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo
làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn
gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ (1m x 0,5 m). Vị
(tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội pācittiya (ưng đối
trị).
[770] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[771] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y
đắp ghẻ) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái
che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị
điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ tám
91. Điều học thứ chín: (Kích
thước vải choàng tắm mưa)
[772] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định
[772] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã sử dụng các vải choàng tắm mưa không theo kích thước. Các vị trong lúc để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng các vải choàng tắm
mưa không theo kích thước?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng các vải choàng tắm
mưa không theo kích thước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng các vải
choàng tắm mưa không theo kích thước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này
không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin
của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỳ khưu, các ngươi nên
phổ biến điều học này như vầy: “Trong lúc cho thực hiện vải choàng tắm mưa, vị
tỳ khưu nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài sáu
gang tay, chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt
quá mức ấy thì (vải choàng tắm mưa) nên được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng
đối trị).”
[773] Vải choàng tắm mưa nghĩa là nhằm nhu cầu của bốn tháng mùa
mưa.
Trong lúc cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo
làm.
Nên bảo làm theo kích thước: Ở đây, kích thước này là chiều dài
sáu gang tay chiều rộng hai gang rưỡi theo gang tay của đức Thiện Thệ (1,50 m x
0,625 m). Vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy, trong lúc thực hiện thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội
pācittiya (ưng đối trị).
[774] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[775] Vị làm theo kích thước, vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (vải
choàng tắm mưa) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị
làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối
kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ chín
92. Điều học thứ mười (Kích
thước y của đức Thiện Thệ)
[776] Câu chuyện về các tỳ-khưu
Nanda. Sự quy định
[776] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana,
tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Nanda con trai người dì
của đức Thế Tôn là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thấp hơn đức Thế Tôn bốn
ngón tay. Vị ấy mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ. Các tỳ khưu trưởng lão
đã nhìn thấy đại đức Nanda từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng):
“Đức Thế Tôn đi đến” rồi đã rời chỗ ngồi đứng dậy. Các vị ấy sau khi nhận ra
người đang đi đến liền phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Nanda lại mặc y có kích thước y của đức Thiện Thệ?
…(như trên)…
- Này Nanda, nghe nói ngươi mặc y có kích thước y của đức Thiện
Thệ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Nanda, vì sao ngươi lại mặc y có kích thước y của đức Thiện
Thệ vậy? Này Nanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và
này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào
cho thực hiện y có kích thước y của đức Thiện Thệ hoặc rộng hơn thì (y ấy) nên
được cắt bớt và phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Trong trường hợp này, kích
thước y của đức Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ là chiều dài chín gang tay,
chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Đây là kích thước y của đức
Thiện Thệ dành cho đức Thiện Thệ.”
[777] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Kích thước y của đức Thiện Thệ nghĩa là chiều dài chín gang tay,
chiều rộng sáu gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[6]
Cho thực hiện: vị (tự) làm hoặc bảo làm, trong lúc thực hiện phạm
tội dukkaṭa (tác ác). Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội
pācittiya (ưng đối trị).
[778] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm
tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm
xong thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Được làm bởi người khác, vị đạt được rồi sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[779] Bài kệ tóm lược phần Báu
Vật
[779] Vị làm nhỏ hơn, sau khi đạt được (y) do người khác làm quá kích thước thì cắt bớt rồi sử dụng, vị làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết điều học thứ mười
Phần Báu Vật là phần thứ chín
Tóm lược phần này:
Của vua, vật quý giá,
vị hiện diện, kim may,
(chân) giường, độn bông gòn,
tọa cụ, và ghẻ lở,
(choàng tắm) thuộc mùa mưa,
và (y) đức Thiện Thệ.
[780] Tổng kết chương Ưng Đối
Trị. Bài kệ tóm lược
[780] Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya (ưng đối trị) đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh
trong vấn đề này?
Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh
trong vấn đề này?
Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc
này là như vậy.
Hết Chương Pācittiya (Ưng Đối Trị)
[1] Vidha được đề cập ở Tiểu Phẩm -
Cullavagga, V, [165].
[2] Añjanī, añjanīsalākā được
đề cập ở Tiểu Phẩm - Cullavagga, V, [160].
[3] Udakapuñchanī được đề cập ở
Tiểu Phẩm - Cullavagga, V, [100].
[4] Sugataṅgulena: theo ngón
tay của đức Thiện Thệ. Theo từ điển của Childers, aṅgula là bề rộng của ngón
tay, tương dương 1 inch =2,54 cm; vậy 8 aṅgula = 2,54 x 8 = 20,32 cm. Tài liệu
The Buddhist Monsatic Code cho biết chiều dài của 8 aṅgula vào khoảng 16,6 cm;
đó là nói về chân giường (pādakaṃ). Tuy nhiên, do câu sau: “ngoại trừ phần
khung giường ở bên dưới” nên chân giường được tính từ dưới đất lên phần bên dưới
mối nối của thanh ngang và chân giường, hay nói cách khác 8 aṅgula chính là khoảng
hở giữa mặt đất và thanh ngang của khung giường. Hiểu theo cách này thì chỗ nằm
cách mặt đất bao nhiêu cũng không được xác định rõ, có thể là 40 cm hoặc 50 cm
tùy theo bề rộng của thanh ngang (độ cao như vậy xét ra cũng hợp lý). Nếu tính
ngón tay của đức Thiện Thệ có chiều dài gấp ba lần ngón tay của người bình thường
thì giường nằm có vẻ hơi cao (tối thiểu là 70 cm nếu tính thanh ngang của giường
có bề rộng là 20 cm).
[5] Với những kích thước của tọa
cụ, y đắp ghẻ, và y tắm mưa, độ dài gang tay của đức Thiện Thệ nên lấy số đo là
25 cm tức là độ dài gang tay của người nam bậc trung thay vì gấp ba lần (xem
thêm điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ 6 về làm cốc liêu). Như thế, kích thước
tọa cụ căn bản không đường viền là 50 cm x 37,5 cm. Đức Phật cho phép đường viền
là 25 cm, chúng tôi nghĩ là viền cả bốn cạnh; nhưng khi đọc lời trình bày về tọa
cụ có kèm theo hình vẽ của ngài Mahāsamaṇa Chao trong tài liệu Vinayamukha vấn
đề xem ra phức tạp hơn nhiều, quý vị nên tìm đọc để suy nghiệm.
[6] 2,25 m x 1,50 m, theo kích
thước này thì lớn hơn y nội nhưng nhỏ hơn y vai trái đang sử dụng hiện nay.
Hết Chương 8 - Quay về Mục Lục Chương 8 - Xem tiếp Chương 9
Quay về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 2
0 Comments