Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 6. Dược Phẩm - Tụng Phẩm 3

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 6. Dược Phẩm (Bhesajjakkhandhaka)

3. Tụng phẩm thứ ba

Mục Lục

[61] Câu chuyện về người bà-la-môn - Mười lợi ích của cháo

[62] Kệ tùy h về sự bố thí cháo

[64] Câu chuyện về vị quan đại thần mới có đức tin: chuyện cháo đặc

[65] Câu chuyện về Velaṭṭha Kaccāna: Sự bố thí đường

[67] Câu chuyện ở Pāaligàma. Năm lợi ích của việc giữ giới

[71] Câu chuyện về Sunīdha và Vassakāra

[75] Ở Koigāma. Giảng về Tứ Diệu Đế

[77] Câu chuyện về k nữ Ambapālī - Câu chuyện về các vương tử dòng Licchavi. Sự cúng dường vườn xoài

Nội Dung

[61] Câu chuyện về người bà-la-môn - Mười lợi ích của cháo

 [61] Sau đó, khi đã ngự tại thành Bārāasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Andhakavinda cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, dân chúng trong xứ sở cho người chất lên các xe hàng nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi lần lượt nối đuôi theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): “Khi nào chúng tôi đến phiên, khi ấy chúng tôi sẽ thực hiện bữa trai phạn” và có số lượng là năm trăm người ăn thức ăn còn thừa. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Andhakavinda. Khi ấy, có người bà-la-môn nọ không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hơn hai tháng nay, ta đã theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): ‘Khi nào ta đến phiên, khi ấy ta sẽ thực hiện bữa trai phạn,’ và ta không nhận được phiên. Mà ta thì đơn chiếc, nhiều công việc gia đình đã bị ta bỏ bê. Hay là ta nên nhìn xem ở nhà ăn và ta nên chuẩn bị sẵn sàng món gì ở nhà ăn không có?” Sau đó, người bà-la-môn ấy trong khi nhìn xem ở nhà ăn đã không thấy hai món là cháo và mật viên. Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại đức Ānanda điều này:

- Thưa ngài Ānanda, ở đây tôi không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hơn hai tháng nay, ta đã theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): ‘Khi nào ta đến phiên, khi ấy ta sẽ thực hiện bữa trai phạn,’ và ta không nhận được phiên. Mà ta thì đơn chiếc, nhiều công việc gia đình đã bị ta bỏ bê. Hay là ta nên nhìn xem ở nhà ăn và ta nên chuẩn bị sẵn sàng món gì ở nhà ăn không có?” Thưa ngài Ānanda, trong khi nhìn xem ở nhà ăn tôi đây đã không thấy hai món là cháo và mật viên. Thưa ngài Ānanda, nếu tôi chuẩn bị sẵn sàng thì Ngài Gotama có thọ nhận cháo và mật viên của tôi hay không?

- Này ông bà-la-môn, như thế thì tôi sẽ hỏi đức Thế Tôn.

Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.

- Này Ānanda, như vậy thì bảo ông ta hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.

(Sau đó, đại đức Ānanda đã nói với người bà-la-môn như vầy):

- Này ông bà-la-môn, như vậy thì ông hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.

Sau đó, khi trải qua đêm ấy người bà-la-môn ấy đã cho người chuẩn bị sẵn sàng nhiều cháo và mật viên rồi đem dâng đến đức Thế Tôn:

- Bạch Ngài Gotama, xin hãy thọ lãnh cháo và mật viên của tôi.

- Này bà-la-môn, như thế thì hãy dâng đến các vị tỳ khưu.

Các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ lãnh.

- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.

Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với nhiều cháo và mật viên. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong có cánh tay đã được rửa và bàn tay đã rời khỏi bình bát, người bà-la-môn ấy đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với người bà-la-môn ấy đang ngồi một bên điều này:

- Này bà-la-môn, đây là mười điều lợi ích của cháo. Mười điều ấy là gì? Trong khi bố thí cháo (người ấy) bố thí tuổi thọ, bố thí sắc đẹp, bố thí sự an lạc, bố thí sức mạnh, bố thí trí tuệ, người đã húp cháo dứt hẳn cơn đói, chận đứng cơn khát, điều hòa gió, làm sạch bàng quang, và làm tiêu hóa phần (vật thực) thô còn lại chưa được tiêu hóa. Này bà-la-môn, đây là mười điều lợi ích của cháo.

[62] Kệ tùy h về sự bố thí cháo

 [62]

Người nào bố thí cháo

cung kính và hợp thời

đến những ai thu thúc

ăn vật kẻ khác cho

là đã cho vị ấy

được mười điều lợi ích:

tuổi thọ, và sắc đẹp,

an vui, và sức mạnh,

nhờ đó được sanh khởi

trí tuệ cho vị ấy,

xua đi được cơn đói

cơn khát, gió (điều hòa),

làm trong sạch bàng quang,

tiêu hóa vật ăn vào.

Vật ấy là dược phẩm

đấng Thiện Thệ ngợi khen.

Bởi thế, người khao khát

an lạc chốn thiên đường

hoặc là đang mong muốn

sự phồn vinh nhân loại

nên thường xuyên bố thí

cháo đầy đủ đến vị

có nhu cầu an lạc.

[63] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi tùy h công đức của người bà-la-môn bằng những lời kệ này rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thọ dụng) cháo và mật viên.

[64] Câu chuyện về vị quan đại thần mới có đức tin: chuyện cháo đặc

 [64] Dân chúng đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn cho phép cháo và mật viên.” Vào buổi sáng sớm, họ đã cho chuẩn bị sẵn sàng cháo đặc và mật viên. Các tỳ khưu vào buổi sáng sớm được thỏa mãn với cháo đặc và mật viên nên không thọ thực được như ý ở chỗ thọ thực.

Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được vị quan đại thần nọ mới có đức tin thỉnh mời vào ngày hôm sau. Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên chuẩn bị sẵn sàng một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt cho một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu rồi sẽ dâng đến cứ mỗi một vị tỳ khưu là một đĩa thịt?” Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm và một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:

- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư dinh của vị quan đại thần mới có đức tin ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy phục vụ các vị tỳ khưu ở trong nhà ăn. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:

- Này đạo hữu, chỉ dâng chút ít thôi. Này đạo hữu, chỉ dâng chút ít thôi.

- Thưa các ngài, chớ có thọ lãnh chỉ chút ít (vì nghĩ rằng): “Vị quan đại thần này mới có đức tin.” Tôi đã cho chuẩn bị nhiều vật thực loại cứng loại mềm và một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt, tôi sẽ dâng đến mỗi một vị tỳ khưu là một đĩa thịt. Thưa các ngài, hãy thọ lãnh theo như ước muốn.

- Này đạo hữu, không phải vì lý do ấy mà chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít; tuy nhiên vì vào sáng sớm chúng tôi đã được thỏa mãn với cháo đặc và mật viên rồi, cho nên chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít.

Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các đại đức đã được tôi thỉnh mời lại thọ dụng cháo đặc của người khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?

Rồi trở nên giận dữ, không còn hoan h, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng):

- Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.

Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị quan đại thần mới có đức tin ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Khi đức Thế Tôn ra đi không lâu, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Là việc ta đã trở nên giận dữ, không còn hoan h, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.’ Ta đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?”

Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, ở đây khi đức Thế Tôn ra đi không lâu, con đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Là việc ta đã trở nên giận dữ, không còn hoan h, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.’ Ta đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?” Bạch ngài, con đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?

- Này đạo hữu, kể từ lúc ngươi thỉnh mời hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu cho ngày hôm sau, từ lúc ấy ngươi đã tạo ra được nhiều phước báu. Kể từ lúc mỗi một phần cơm của ngươi được mỗi một vị tỳ khưu thọ lãnh, từ lúc ấy ngươi đã tạo ra được nhiều phước báu. Các cõi trời đã được thành tựu cho ngươi rồi.

Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy (nghĩ rằng): “Nghe nói ta có được điều lợi ích! Nghe nói ta đã đạt được điều tốt! Nghe nói ta đã tạo ra được nhiều phước báu! Nghe nói các cõi trời đã được thành tựu cho ta!” nên mừng rỡ phấn chấn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác; vị nào thọ dụng thì nên được hành xử theo Pháp.[11]

[65] Câu chuyện về Velaṭṭha Kaccāna: Sự bố thí đường

 [65] Sau đó, khi đã ngự tại Andhakavinda theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, Velaṭṭha Kaccāna đang trên đường xa từ thành Rājagaha đi Andhakavinda cùng với năm trăm xe hàng toàn bộ đều chất đầy các hũ mật đường. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy Velaṭṭha Kaccāna từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã rời đường lộ và ngồi xuống ở gốc cây nọ. Sau đó, Velaṭṭha Kaccāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, Velaṭṭha Kaccāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, con muốn dâng đến mỗi một vị tỳ khưu một hũ mật đường

- Này Kaccāna, như vậy thì ngươi hãy mang lại chỉ một hũ mật đường thôi.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy chỉ một hũ mật đường rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đứcThế Tôn điều này:

- Bạch ngài, hũ mật đường đã được mang lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy dâng mật đường đến các vị tỳ khưu.     

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi dâng mật đường đến các vị tỳ khưu rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, mật đường đã được dâng đến các vị tỳ khưu, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy dâng mật đường đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn.

 - Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi dâng mật đường đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, mật đường đã được dâng đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường.

 - Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường. Một số các vị tỳ khưu đã chứa đầy các bình bát, (một số) đã chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách. Rồi Velaṭṭha Kaccāna sau khi đã làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, các vị tỳ khưu đã được thỏa mãn với nhiều mật đường, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi đã cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, mật đường đã được cho đến những người ăn thức ăn còn thừa, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi đã cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, mật đường đã được cho đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường. Một số người ăn thức ăn còn thừa đã chứa đầy các lọ, các bình, (một số) đã chứa đầy các giỏ, và dùng luôn cả phần y ở phía trước (túm lại để chứa đường). Rồi Velaṭṭha Kaccāna sau khi đã làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, những người ăn thức ăn còn thừa đã được thỏa mãn với nhiều mật đường, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?

- Này Kaccāna, ta không thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người mà đường này khi được người ấy ăn vào có thể đem lại sự tiêu hóa đúng đắn, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Này Kaccāna, chính vì điều ấy ngươi hãy đổ bỏ đường ấy ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã đổ mật đường ấy xuống nước không có sinh vật. Khi ấy, mật đường ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói. Cũng giống như lưỡi cày đã được nung đỏ trọn ngày khi được bỏ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói; tương tợ như thế, mật đường ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói.

Khi ấy, Velaṭṭha Kaccāna trở nên hoảng hốt, lông dựng đứng lên, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Rồi đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến Velaṭṭha Kaccāna đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của Velaṭṭha Kaccāna đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến Velaṭṭha Kaccāna: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, Velaṭṭha Kaccāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

[66] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Rājagaha mật đường được dồi dào. Các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Mật đường đã được đức Thế Tôn cho phép đến chính vị bị bệnh, còn chúng ta thì không bị bệnh” nên ngần ngại không thọ dụng mật đường. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép mật đường (gua) đối với vị bị bệnh và nước (có pha) mật đường (guodaka) đối với vị không bị bệnh

[67] Câu chuyện ở Pāaligàma - Năm lợi ích của việc giữ giới

 [67] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Pāaligàma[12] cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Pāaligàma. Các cư sĩ ở tại Pāaligàma đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Pāaligàma.” Sau đó, các cư sĩ ở tại Pāaligàma đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các cư sĩ ở tại Pāaligàma đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại các cư sĩ ở tại Pāaligàma đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời (trú tại) nhà nghỉ trọ cùng với hội chúng Tỳ khưu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, các cư sĩ ở tại Pāaligàma hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đi đến nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã trải ra tất cả thảm trải ở nhà nghỉ trọ, cho sắp đặt các chỗ ngồi, cho bố trí lu nước, chuẩn bị cây đèn dầu, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các cư sĩ ở tại Pāaligàma đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, tất cả thảm trải ở nhà nghỉ trọ đã được trải ra, các chỗ ngồi đã được cho sắp đặt, lu nước đã được cho bố trí, cây đèn dầu đã được chuẩn bị. Bạch ngài, bây giờ là thời điểm của việc gì xin đức Thế Tôn hãy suy tính về việc ấy.

Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã rửa sạch hai bàn chân rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ cột nhà ở chính giữa, mặt nhìn về hướng đông. Hội chúng tỳ khưu cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía tây, mặt nhìn về hướng đông, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn. Các cư sĩ ở tại Pāaligàma cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía đông, mặt nhìn về hướng tây, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các cư sĩ ở tại Pāaligàma rằng:

[68] - Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Năm điều ấy là gì?

Này các cư sĩ, ở đây kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới gánh chịu sự mất mát lớn về tài sản do nguyên nhân xao lãng. Đây là điều tai hại thứ nhất của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn xấu xa của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới lan rộng. Đây là điều tai hại thứ nhì của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người sát-đế-lỵ (khattiya), dầu là tập thể những người bà-la-môn (brāhmaa), dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các sa-môn, kẻ ấy đi vào thiếu sự tự chủ và trở nên bối rối. Đây là điều tai hại thứ ba của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới có sự mê mờ khi từ trần. Đây là điều tai hại thứ tư của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào chốn bất hạnh, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Đây là điều tai hại thứ năm của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới.

Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới.

[69] Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Năm điều ấy là gì?

Này các cư sĩ, người giữ giới có sự thành tựu về giới thành tựu số lượng lớn về tài sản do nguyên nhân không xao lãng. Đây là điều lợi ích thứ nhất của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn tốt đẹp của người giữ giới có sự thành tựu về giới lan rộng. Đây là điều lợi ích thứ nhì của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người sát-đế-lỵ (khattiya), dầu là tập thể những người bà-la-môn (brāhmaa), dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các sa-môn, người ấy đi vào có sự tự chủ và không có bối rối. Đây là điều lợi ích thứ ba của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới có sự không mê mờ khi từ trần. Đây là điều lợi ích thứ tư của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào chốn an vui, cõi trời, cõi người. Đây là điều lợi ích thứ năm của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

[70] Sau đó, khi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các cư sĩ ở tại Pāaligàma bằng bài Pháp thoại đến tận đêm khuya, đức Thế Tôn đã giải tán (bảo rằng):

- Này các cư sĩ, đêm đã khuya. Bây giờ là thời điểm của việc gì thì các ngươi hãy suy tính về việc ấy.

- Bạch ngài, xin vâng.

Các cư sĩ ở tại Pāaligàma nghe theo đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi các cư sĩ ở tại Pāaligàma ra đi không lâu, đức Thế Tôn đã đi vào ngôi nhà trống vắng.

[71] Câu chuyện về Sunīdha và Vassakāra

 [71] Vào lúc bấy giờ, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra cho xây thành lũy ở trong Pāaligàma để ngăn cản người Vajjī. Và đức Thế Tôn, sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, đã nhìn thấy bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt xa loài người nhiều vị trời đang chiếm giữ các khu vực ở trong Pāaligàma. Các vị trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực lớn ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực trung bình ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực kém ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda, những ai là người cho xây thành lũy ở Pāaligàma vậy?

- Bạch ngài, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra là người cho xây thành lũy ở Pāaligàma để ngăn cản người Vajjī.

- Này Ānanda, cũng giống như là đã thỉnh ý với chư thiên ở cõi Tāvatisa (Tam Thập Tam Thiên), này Ānanda, tương tợ như thế hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã cho xây thành lũy ở Pāaligàma để ngăn cản người Vajjī. Này Ānanda, ở đây sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, ta đã nhìn thấy bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt trên loài người nhiều vị trời đang chiếm giữ các khu vực ở trong Pāaligàma. Các vị trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực lớn ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực trung bình ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực kém ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Này Ānanda, cho đến tận lãnh thổ của những người Ariyan và đến tận con đường của những nhà thương buôn, Pāaliputta này sẽ trở thành thành phố hàng đầu, là nơi phân phối các loại hàng hóa. Này Ānanada, thành Pāaliputta sẽ xảy ra ba tai họa hoặc do lửa, hoặc do nước, hoặc do sự chia hai từ trong nội bộ.

[72] Sau đó, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Xin ngài Gotama hãy nhận lời chúng tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã ra đi.

Sau đó, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:

- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến nơi phân phối thức ăn của hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, hai vị quan đại thần đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã tùy h công đức cho hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đang ngồi một bên bằng những lời kệ này:

[72]

Ở tại xứ sở nào,

khi đã dâng thức ăn

đến những người có giới,

thu thúc, hành Phạm hạnh,

người ấy sắp trú xứ

cho các bậc trí thức.

Chỗ ấy, chư thiên ngụ

người ấy trọng chư thiên,

chư thiên được cúng dường

sẽ cúng dường người ấy,

chư thiên được cung kỉnh

sẽ cung kỉnh người ấy.

Nhờ vậy, chư thiên ấy

thương mến đến người ấy,     

như người mẹ thương xót

con trai ruột của mình,

được chư thiên thương mến

người ấy sẽ thấy được

điều tốt lành luôn luôn.

Sau đó, đức Thế Tôn khi đã tùy h công đức cho hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đang ngồi một bên bằng những lời kệ ấy rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Vào lúc bấy giờ, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã đi theo phía sau đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Hôm nay, Sa-môn Gotama đi ra bằng cửa thành nào thì cửa thành ấy sẽ có tên là Cửa thành Gotama, và băng qua sông Gagā (Hằng-hà) bằng bến tàu nào thì bến tàu ấy sẽ có tên là Bến tàu Gotama.” Sau đó, cửa thành nào mà đức Thế Tôn đã đi ra, cửa thành ấy đã có tên là Cửa thành Gotama. Rồi đức Thế Tôn đã đi đến sông Gagā.

Vào lúc bấy giờ, sông Gagā luôn tràn đầy, mấp mé bờ khiến chim quạ có thể uống nước. Một số dân chúng đi kiếm thuyền, một số đi kiếm xuồng, một số buộc thành chiếc bè với ước muốn đi sang bờ bên kia. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy những người ấy, một số đang đi kiếm thuyền, một số đang đi kiếm xuồng, một số đang buộc thành chiếc bè với ước muốn đi sang bờ bên kia. Sau khi nhìn thấy, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra; tương tợ như thế, đức Thế Tôn đã biến mất tại bờ bên này của sông Gagā và hiện ra đứng ở bờ bên kia cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, khi đã hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

Sau khi dựng cây cầu,

vượt qua các hồ nhỏ,

những người nào băng qua

biển cả hoặc ao hồ

người bởi vì loay hoay

buộc thành chiếc bè nhỏ

trong khi các bậc trí

đã vượt đến bờ kia.

[75] Ở Koigāma - Giảng về Tứ Diệu Đế

 [75] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến Koigāma. Tại nơi ấy, đức Thế Tôn ngự tại Koigāma. Ở đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, do sự không giác ngộ, không thấu triệt được bốn Chân Lý Cao Thượng, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm. Bốn điều ấy là gì? Này các tỳ khưu, do sự không giác ngộ, không thấu triệt được Chân Lý Cao Thượng của Khổ, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm. ...(như trên)... Chân Lý Cao Thượng của Nguồn Gốc Sanh Khởi của Khổ, ...(như trên)... Chân Lý Cao Thượng của Sự Chấm Dứt của Khổ, ...(như trên)... Chân Lý Cao Thượng của Sự Thực Hành đưa đến Sự Chấm Dứt của Khổ, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm.

Này các tỳ khưu, khi Chân Lý Cao Thượng của Khổ này đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Nguồn Gốc Sanh Khởi của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Sự Chấm Dứt của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Sự Thực Hành đưa đến Sự Chấm Dứt của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, sự khao khát về sự tái sanh đã được cắt đứt, lối đưa đến sự tái sanh đã cạn kiệt, giờ đây không còn sự tái sanh lần nữa.

[76]

Không thấy được như thật

bốn Chân Lý Cao Thượng

luân hồi dài thăm thẳm

sanh kiếp này kiếp khác.

Những điều ấy thấy được

lối tái sanh không còn,

nguồn sanh khổ đã đoạn

sanh lại nay hết rồi.

[77] Câu chuyện về k nữ Ambapālī - Câu chuyện về các vương tử dòng Licchavi. Sự cúng dường vườn xoài

 [77] Nàng k nữ Ambapālī đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Koigāma.” Sau đó, nàng k nữ Ambapālī đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi thành Vesālī (Vệ Xá) bằng những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, nàng đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nàng k nữ Ambapālī đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, nàng k nữ Ambapālī đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng Tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của con.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, nàng k nữ Ambapālī hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

Các vương tử dòng Licchavi ở Vesālī đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Koigāma.” Sau đó, các vương tử dòng Licchavi ở Vesālī đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi thành Vesālī bằng những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu xanh, có vẻ bên ngoài màu xanh, y phục màu xanh, đồ trang sức màu xanh. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu vàng, có vẻ bên ngoài màu vàng, y phục màu vàng, đồ trang sức màu vàng. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu đỏ, có vẻ bên ngoài màu đỏ, y phục màu đỏ, đồ trang sức màu đỏ. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu trắng, có vẻ bên ngoài màu trắng, y phục màu trắng, đồ trang sức màu trắng. Khi ấy, nàng k nữ Ambapālī di chuyển song song gọng xe với gọng xe, càng xe với càng xe, bánh xe với bánh xe, trục bánh xe với trục bánh xe của các vương tử rất trẻ tuổi dòng Licchavi. Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã nói với nàng k nữ Ambapālī điều này:

- Này nàng Ambapālī, vì sao nàng lại di chuyển song song gọng xe với gọng xe, càng xe với càng xe, bánh xe với bánh xe, trục bánh xe với trục bánh xe của các vương tử rất trẻ tuổi dòng Licchavi của chúng tôi vậy?

- Này các cậu công tử, chính là vì tôi đã thỉnh mời được hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu vào ngày mai.

- Này nàng Ambapālī, hãy nhường lại cho chúng tôi bữa thọ trai ấy với giá một trăm ngàn.

- Này các cậu công tử, cho dù các cậu chịu nhường lại thành Vesālī luôn cả dân cư cho tôi, tôi cũng không chịu nhường lại bữa thọ trai ấy.

Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã búng ngón tay (nói rằng):

- Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi! Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi!

Sau đó, các vương tử dòng Licchavi ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vương tử dòng Licchavi ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã bảo các vị tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, chư thiên ở cõi Tāvatisa chưa được các tỳ khưu nhìn thấy trước đây. Này các tỳ khưu, hãy nhìn tập thể các vương tử dòng Licchavi. Này các tỳ khưu, hãy nhìn tập thể các vương tử dòng Licchavi. Này các tỳ khưu, hãy so sánh tập thể các vương tử dòng Licchavi với tập thể chư thiên cõi Tāvatisa.

Khi ấy, sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, các vương tử dòng Licchavi ấy đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vương tử dòng Licchavi ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, các vương tử dòng Licchavi ấy đã nói đã với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng Tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của chúng con.

- Này các vị Licchavi, ta đã nhận lời nàng k nữ Ambapālī về bữa thọ trai vào ngày mai rồi.

Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã búng ngón tay (nói rằng):

- Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi! Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi!

Sau đó, khi đã được hoan h và thỏa mãn với lời nói của đức Thế Tôn, các vương tử dòng Licchavi ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

Sau đó, khi đã ngự tại Koigāma như ý thích, đức Thế Tôn đã đi đến Nādikā. Tại nơi ấy ở Nākikā, đức Thế Tôn ngự trong căn nhà bằng gạch.

Sau đó, khi trải qua đêm ấy nàng k nữ Ambapālī đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm trong khu vườn của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:

- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến chỗ dâng cúng vật thực của nàng k nữ Ambapālī, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, nàng k nữ Ambapālī đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, nàng đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nàng k nữ Ambapālī đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, con xin dâng khu vườn Ambapāli này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu.

Đức Thế Tôn đã thọ nhận khu vườn. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nàng k nữ Ambapālī bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến Mahāvana (Đại Lâm). Tại nơi ấy ở Vesālī, đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana, giảng đường Kūāgāra.

Hết tụng phẩm Licchavi

Xem Tụng Phẩm 4 - Quay Về Mục Lục Chương 6

Xem Chương 7 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments