Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 6. Dược Phẩm (BhesajjakkhandhakaṂ)
4. Tụng phẩm thứ tư
Mục Lục
[78] Câu chuyện về tướng quân Sīha. Cá và thịt: ba điều thanh tịnh
[81] Hủy bỏ các sự cho phép trong thời kỳ có khó khăn về vật thực
[82] Chỉ định khu vực cho phép (kappiyabhūmi)
[83] Câu chuyện về gia chủ Meṇḍaka: Năng lực thần thông
[85] Cho phép sự tiên liệu về hành trình đường xa
[86] Câu chuyện về đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Cho phép tám loại thức uống
[87] Bài kệ về sự cúng dường
[88] Câu chuyện về Roja dòng Malla
[89] Câu chuyện về vị xuất gia lúc tuổi già nguyên là thợ cạo
[91] Phân chia sự thâu hoạch về trồng trọt
[92] Bốn pháp dung hòa
[93] Sử dụng các loại vật thực
[94] Bài kệ tóm lược
Nội Dung
[78] Câu chuyện về tướng quân
Sīha. Cá và thịt: ba điều thanh tịnh
[78] Vào lúc bấy giờ, các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp rồi tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức. Vào lúc bấy giờ, tướng quân Sīha là đệ tử của Nigaṇṭha đang ngồi trong tập thể ấy. Khi ấy, tướng quân Sīha đã khởi ý điều này: “Không còn nghi ngờ gì nữa đức Thế Tôn ấy phải là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác bởi vì chính các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng này khi tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp đều tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức; có lẽ ta nên đi đến để diện kiến đức Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy?” Sau đó, tướng quân Sīha đã đi đến gặp Nigaṇṭha Nāṭaputta,[13] sau khi đến đã đảnh lễ Nigaṇṭha Nāṭaputta rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, tướng quân Sīha đã nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta điều này:
- Thưa ngài, tôi muốn đi đến để diện kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sīha, ngươi là người theo thuyết hành động, sao lại đi đến
diện kiến Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động? Này Sīha, chính
Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động,
và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.
Khi ấy, ước muốn đi đến để diện kiến đức Thế Tôn của tướng quân
Sīha đã được lắng dịu đi.
Đến lần thứ nhì, ...(như trên)...
Đến lần thứ ba, các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng tụ hội lại
ngồi chung trong nhà hội họp rồi tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán
đức Tăng bằng nhiều phương thức. Đến lần thứ ba tướng quân Sīha đã khởi ý điều
này: “Không còn nghi ngờ gì nữa đức Thế Tôn ấy phải là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác bởi vì chính các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng này khi tụ hội lại
ngồi chung trong nhà hội họp đều tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán
đức Tăng bằng nhiều phương thức. Những người Nigaṇṭha dầu có được hỏi ý kiến hay không được hỏi
ý kiến thì sẽ làm được điều gì đối với ta? Có lẽ ta không cần hỏi ý kiến các
Nigaṇṭha và nên đi đến để diện kiến đức Thế Tôn là
bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác ấy?”
Sau đó, tướng quân Sīha cùng với năm trăm cỗ xe đã rời thành
Vesālī vào ban ngày để diện kiến đức Thế Tôn. Sau khi đi hết khoảng đường dành
cho cỗ xe, tướng quân Sīha đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ngồi
xuống một bên, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tôi được nghe rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về
không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều
ấy.” Bạch ngài, những người nào đã nói như vầy: “Sa-môn Gotama là người thuyết
về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với
điều ấy,” bạch ngài, phải chăng những người ấy nói đúng về đức Thế Tôn, không
gièm pha đức Thế Tôn với sự sai trái, và tuyên bố về pháp phù hợp với Pháp (của
ngài) không? Và có phải bất cứ người nào sống theo pháp có lời nói hợp với giáo
lý đều không có cơ sở để chê bai? Bạch ngài, chúng tôi thật tình không có ý lên
án đức Thế Tôn.
[79] - Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không
hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động,
giảng về pháp hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt,
giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng về
pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng về pháp từ
bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng về
pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai bào,
giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách
đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về pháp
tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không
hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”?
Này Sīha, bởi vì ta giảng về không hành động của thân làm ác, của miệng nói ác,
của ý nghĩ ác; ta giảng về không hành động của các pháp ác bất thiện có nhiều dạng.
Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về
ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về
pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động,
giảng về pháp hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì
ta giảng về hành động của thân làm thiện, của miệng nói thiện, của ý nghĩ thiện;
ta giảng về hành động của các thiện pháp dưới nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp
môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng:
“Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động, giảng về pháp hành động, và huấn
luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt,
giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì
ta giảng về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân, của si; ta giảng về sự đoạn diệt
của các pháp ác bất thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp
môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama
là người thuyết về đoạn diệt, giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử
với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng
về pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta ghê
tởm với việc làm ác của thân, với lờì nói ác của miệng, với suy nghĩ ác của ý;
ta giảng pháp về điều ghê tởm trong sự tạo thành các pháp ác bất thiện có nhiều
dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng
đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng về
pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng về
pháp từ bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta giảng
pháp về sự từ bỏ luyến ái, sân, si; ta giảng pháp về sự từ bỏ các pháp ác bất
thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi
nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng
về pháp từ bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng
về pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, ta giảng về
các pháp ác và bất thiện là việc làm ác của thân, lờì nói ác của miệng, suy
nghĩ ác của ý cần được thiêu đốt. Này Sīha, người nào có các pháp ác và bất thiện
cần được thiêu đốt đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt
đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh
khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thiêu đốt.” Này Sīha, các pháp
ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đã được diệt tận, các rễ đã được
cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống,
không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Sīha, đây là pháp môn mà
với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng:
“Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng về pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ
tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai
bào, giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”?
Này Sīha, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái
sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt
nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện
sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thoát khỏi thai bào.” Này
Sīha, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự hiện hữu lần
nữa và là sự tái sanh đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt
đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh
khởi trong tương lai. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi
nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi
thai bào, giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về
pháp tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta là người
tự tin, ta giảng về sự tự tin với sự tự tin tối thượng, và huấn luyện các đệ tử
với điều ấy. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một
cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về
pháp tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
[80] Khi được nói như thế, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn
điều này:
- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch
ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che
kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng):
“Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức
Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế
Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư
sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
- Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối với
những người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.
- Bạch ngài, với lời nói này của đức Thế Tôn con càng thêm hoan hỷ và phấn khởi bởi vì đức Thế Tôn đã nói với
con như vầy: “Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối với những
người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.” Bạch ngài, bởi vì các ngoại đạo sau khi
thâu nhận con làm đệ tử có thể vác cờ đi khắp cả Vesālī (rêu rao) rằng: “Tướng
quân Sīha đã tự nguyện trở thành đệ tử của chúng tôi!” thế mà đức Thế Tôn đã
nói với con như vầy: “Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối
với những người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.” Bạch ngài, lần thứ nhì con đây
xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận
con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
- Này Sīha, lâu nay gia đình ông là nguồn nước cho những người
Nigaṇṭha, vì thế ông nên suy nghĩ đến việc vật thực
cần được bố thí cho những người đã đi đến ấy.
- Bạch ngài, với lời nói này của đức Thế Tôn con càng thêm hoan hỷ và phấn khởi bởi vì đức Thế Tôn đã nói với
con như vầy: “Này Sīha, lâu nay gia đình ông là nguồn nước cho những người Nigaṇṭha, vì thế ông nên suy nghĩ đến việc vật thực
cần được bố thí cho những người đã đi đến ấy.” Bạch ngài, con đã được nghe điều
này: “Sa-môn Gotama nói như vầy: ‘Vật cúng dường chỉ nên dâng đến ta thôi, vật
cúng dường không nên dâng đến những người khác. Vật cúng dường chỉ nên dâng đến
các đệ tử của ta thôi, vật cúng dường không nên dâng đến các đệ tử của những
người khác. Đã dâng đến riêng ta thôi thì có quả báu lớn, đã dâng đến những người
khác thì không có quả báu lớn. Đã dâng đến các đệ tử của riêng ta thôi thì có
quả báu lớn, đã dâng đến các đệ tử của những người khác thì không có quả báu lớn,’”
thế mà đức Thế Tôn lại khuyến khích con việc bố thí cho những người Nigaṇṭha. Bạch ngài, vả lại trong trường hợp này
chúng con sẽ biết thời điểm. Bạch ngài, lần thứ ba con đây xin quy y đức Thế
Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư
sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau đó, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến tướng quân
Sīha. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm,
bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của
việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của tướng quân Sīha đã sẵn sàng, dễ
uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp
thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm
vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế,
ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi
đến tướng quân Sīha: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có
bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được
Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành
tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người
khác, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn và hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa
trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, tướng quân
Sīha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, tướng quân Sīha đã ra lệnh cho người đàn ông nọ rằng:
- Này khanh, hãy đi và tìm (mua) loại thịt đã được làm sẵn
(pavattamaṃsaṃ).
Sau đó, khi trải qua đêm ấy tướng quân Sīha đã cho chuẩn bị sẵn
sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến
đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến
tư dinh của tướng quân Sīha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt
sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người Nigaṇṭha, từ đường phố (này) đến đường phố (khác)
từ giao lộ (này) đến giao lộ (khác), huơ tay kêu gào rằng: “Hôm nay, tướng quân
Sīha đã giết con thú lớn và làm bữa trai phạn cho Sa-môn Gotama. Sa-môn Gotama
tuy biết được điều ấy, vẫn cố tình thọ dụng thịt được làm với sự xác định (người
thọ dụng); (đó là) nghiệp có tính cách liên đới.” Sau đó, có người đàn ông nọ
đã đi đến gặp tướng quân Sīha, sau khi đến đã thì thầm vào tai của tướng quân
Sīha rằng:
- Thưa tướng quân, ngài cần biết điều này. Những người Nigaṇṭha ấy, từ đường phố (này) đến đường phố
(khác) từ giao lộ (này) đến giao lộ (khác), huơ tay kêu gào rằng: “Hôm nay, tướng
quân Sīha đã giết con thú lớn và đã làm bữa trai phạn cho Sa-môn Gotama. Sa-môn
Gotama vẫn cố tình thọ dụng thịt được làm với sự xác định (người thọ dụng); (đó
là) nghiệp có tính cách liên đới.”
- Ông bạn ơi, thôi đi! Đã từ lâu nay, các ngài đại đức ấy có ý muốn
phỉ báng đức Phật, có ý muốn phỉ báng đức Pháp, có ý muốn phỉ báng đức Tăng
nhưng các ngài đại đức ấy không lượng sức, phí công, láo khoét, đã vu khống với
điều không thật mà vẫn không làm tổn hại được đức Thế Tôn ấy. Và cho dầu vì lý
do sống còn, chúng tôi cũng không cố ý tước đoạt mạng sống của chúng sanh.
Sau đó, tướng quân Sīha đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, tướng quân
Sīha đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến
khích, và tạo niềm phấn khởi cho tướng quân Sīha đang ngồi một bên bằng bài
Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi biết thịt được làm (giết) có liên quan (đến
bản thân) không nên thọ dụng; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (thọ
dụng) cá và thịt có được ba điều tuyệt đối thanh tịnh: không được thấy, không
được nghe, không nghi ngờ.[14]
[81] Hủy bỏ các sự cho phép
trong thời kỳ có khó khăn về vật thực
[81] Vào lúc bấy giờ, thành Vesālī có sự sung túc về vật thực, các vụ mùa tốt đẹp, vật thực kiếm được dễ dàng, sự sinh sống được dễ dàng bằng sự mót nhặt hoặc sự tốt bụng (của người khác). Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu trong lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó khăn như là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên, (vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước, và phải chăng ngay cả hôm nay các tỳ khưu vẫn còn thọ dụng những thứ ấy?”
Sau đó vào lúc chiều tối, khi xuất khỏi thiền tịnh đức Thế Tôn đã
bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu trong
lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó khăn như
là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn
viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên, đã được
đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng
(hoặc) đã được mọc ở hồ nước, và phải chăng ngay cả hôm nay các tỳ khưu vẫn còn
thọ dụng những thứ ấy?
- Bạch đức Thế Tôn, các vị vẫn thọ dụng.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu
trong lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó
khăn như là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong
khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên,
(vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã
được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước, kể từ hôm nay ta hủy bỏ những điều
ấy. Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong
khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ
lãnh (trái cây) đã được nhặt lên; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng
(vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã
được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước; vị nào thọ dụng thì nên được hành
xử theo Pháp.[15]
[82] Chỉ định khu vực cho phép
(kappiyabhūmi)
[82] Vào lúc bấy giờ, dân chúng trong xứ sở cho người chất lên các xe hàng nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi đánh xe quây thành vòng tròn ở phía bên ngoài cổng lớn của tu viện và chờ đợi (nghĩ rằng): “Khi nào chúng tôi nhận được phiên, chúng tôi sẽ thực hiện bữa trai phạn.” Và có đám mây đen lớn kéo đến. Khi ấy, những người ấy đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại đức Ānanda điều này:
- Thưa ngài Ānanda, ở đây nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực
loại cứng đã được chất trong các xe hàng và chúng đang còn đó. Giờ có đám mây
đen lớn kéo đến. Thưa ngài Ānanda, vậy chúng tôi nên thực hành như thế nào?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, như thế thì hội chúng hãy chỉ định trú xá ở ven rào
là khu vực làm thành được phép (kappiyabhūmi); hãy tích trữ (vāsetu) vật mà hội
chúng mong muốn ở nơi ấy, (có thể) là trú xá (vihāraṃ), hoặc nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), hoặc tòa nhà dài (pāsādaṃ), hoặc khu nhà lớn (hammiyaṃ), hoặc hang động (guhaṃ). Và này các tỳ khưu, nên được chỉ định như
vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) là khu vực
làm thành được phép. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định
trú xá tên (như vầy) là khu vực làm thành được phép. Đại đức nào đồng ý việc chỉ
định trú xá tên (như vầy) là khu vực làm thành được phép xin im lặng; vị nào
không đồng ý có thể nói lên.
Trú xá tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là khu vực làm
thành được phép. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.”
Vào lúc bấy giờ, ngay tại chỗ đã được chỉ định là khu vực làm
thành được phép, dân chúng nấu các loại cháo, nấu các món thức ăn, chuẩn bị các
món xúp, băm các thứ thịt, chẻ những thanh củi. Sau khi thức dậy vào lúc hừng
sáng của đêm, đức Thế Tôn đã nghe tiếng ồn ào, tiếng ầm ĩ, tiếng kêu của những
con quạ, sau khi nghe đã hỏi đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, tiếng ồn ào, tiếng ầm ĩ ấy, tiếng kêu của những con
quạ là gì vậy?
- Bạch ngài, hiện nay dân chúng nấu các loại cháo, nấu các món thức
ăn, chuẩn bị các món xúp, băm các thứ thịt, chẻ những thanh củi ngay tại chỗ đã
được chỉ định là khu vực làm thành được phép; bạch Thế Tôn, đó chính là tiếng ồn
ào, tiếng ầm ĩ, tiếng kêu của những con quạ.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng khu vực làm thành được phép
đã được chỉ định; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ba
loại khu vực làm thành được phép là loại do sự công bố (ussāvanantikaṃ), loại do sự ngẫu nhiên (gonisādikaṃ), và loại có liên quan gia chủ (gahapatikaṃ).
Vào lúc bấy giờ, đại đức Yasoja bị bệnh. Các dược phẩm thuộc về
nhu cầu của vị ấy được mang đến. Các vị tỳ khưu đã tích trữ chúng ở ngoài khuôn
viên. Các con thú hoang đã ăn đi. Những kẻ trộm đã lấy đi. Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sử dụng khu vực làm thành được
phép đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, ta cho phép bốn loại khu vực làm thành
được phép là loại do sự công bố (ussāvanantikaṃ), loại do sự ngẫu nhiên (gonisādikaṃ), loại có liên quan đến gia chủ (gahapatikaṃ), và loại đã được chỉ định (sammatikaṃ).
[83] Câu chuyện về gia chủ Meṇḍaka: Năng lực thần thông
[83] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa. Người vợ có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung tích chỉ một āḷhaka và có một phần xúp, nàng phân phát thức ăn cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái tô vẫn không hết. Cậu con trai có năng lực thần thông như vầy: Sau khi cầm cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, cậu ta trả lương sáu tháng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi vẫn không cạn (tiền). Cô con dâu có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh chỉ một cái giỏ có dung tích bốn doṇi, nàng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không cạn. Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện.
Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nghe rằng: “Nghe nói trong
vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có
năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi
vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống
và làm ngập đầy kho lúa. Người vợ có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi
xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung tích chỉ một āḷhaka và có một phần xúp, nàng phân phát thức
ăn cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy
thì cái tô vẫn không hết. Cậu con trai có năng lực thần thông như vầy: Sau khi
cầm cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, cậu ta trả lương sáu tháng cho nô tỳ, người
làm công, và người hầu; cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi
vẫn không cạn (tiền). Cô con dâu có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi
xuống bên cạnh chỉ một cái giỏ có dung tích bốn doṇi, nàng cho nô tỳ, người làm công, và người
hầu thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không
cạn. Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường
thì bảy luống cày xuất hiện.” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã bảo
viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng:
- Này khanh, nghe nói trong vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có
năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi
vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống
và làm ngập đầy kho lúa. ...(như trên)... Người tớ trai có năng lực thần thông
như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện. Này khanh,
hãy đi và tìm hiểu, ngươi sẽ nhìn thấy như thế nào thì cũng như đích thân ta
nhìn thấy vậy.
- Tâu đại vương, xin tuân lệnh.
Rồi viên quan đại thần ấy nghe theo đức vua Seniya Bimbisāsa xứ
Magadha cùng với đội quân gồm bốn loại binh chủng đã khởi hành đi thành phố
Bhaddiya, tuần tự đã đến thành phố Bhaddiya gặp gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã nói với gia chủ Meṇḍaka điều này:
- Này gia chủ, bởi vì ta được lệnh của đức vua rằng: “Này khanh,
nghe nói trong vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có
năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi
vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống
và làm ngập đầy kho lúa. ...(như trên)... Người tớ trai có năng lực thần thông
như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện. Này khanh,
hãy đi và tìm hiểu, ngươi sẽ nhìn thấy như thế nào thì cũng như đích thân ta
nhìn thấy vậy.” Này gia chủ, hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của
ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa
rồi ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống
và làm ngập đầy kho lúa.
- Này gia chủ, năng lực thần thông của ngươi đã được thấy rồi.
Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của vợ ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người vợ rằng:
- Như vậy thì nàng hãy phân phát thức ăn cho đội quân gồm bốn loại
binh chủng đi.
Khi ấy, sau khi ngồi xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung
tích chỉ một āḷhaka và
có một phần xúp, người vợ của gia chủ Meṇḍaka đã phân phát thức ăn cho đội quân gồm bốn
loại binh chủng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái tô vẫn không hết.
- Này gia chủ, năng lực thần thông của vợ ngươi đã được thấy rồi.
Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của con trai ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người con trai rằng:
- Như vậy thì con hãy trả lương sáu tháng cho đội quân gồm bốn loại
binh chủng đi.
Khi ấy, sau khi cầm một cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, người con
trai của gia chủ Meṇḍaka đã trả lương sáu tháng cho đội quân gồm bốn loại binh chủng;
cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi vẫn không cạn (tiền).
- Này gia chủ, năng lực thần thông của con trai ngươi đã được thấy
rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của con dâu ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người con dâu rằng:
- Như vậy thì con hãy cho đội quân gồm bốn loại binh chủng thức
ăn sáu tháng đi.
Khi ấy, sau khi ngồi xuống bên cạnh một cái giỏ có dung tích bốn
doṇi, người con dâu của gia chủ Meṇḍakanàng đã cho đội quân gồm bốn loại binh chủng
thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không cạn.
- Này gia chủ, năng lực thần thông của con dâu ngươi đã được thấy
rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của người tớ trai của ngươi.
- Thưa ngài, năng lực thần thông của người tớ trai của tôi sẽ được
nhìn thấy ở ngoài ruộng.
- Này gia chủ, đủ rồi. Năng lực thần thông của người tớ trai của
ngươi cũng đã được nhìn thấy rồi.
Sau đó, viên quan đại thần ấy cùng với đội quân gồm bốn loại binh
chủng đã quay trở về lại thành Rājagaha rồi đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra
xứ Magadha, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ
Magadha.
[84] Sau đó, khi đã ngự tại
thành Vesālī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Bhaddiya
cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Sau
đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Bhaddiya. Tại nơi đó ở
Bhaddiya, đức Thế Tôn ngự tại khu rừng Jātiyā.
Gia chủ Meṇḍaka đã nghe rằng: “Quả thật ngài Sa-môn Gotama con trai dòng
Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, nay đã ngự đến Bhaddiya và ngụ
tại khu rừng Jātiyā. Tiếng đồn tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra
như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã thấu suốt thế gian này tính
luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn,
bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở
đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa,
thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy
đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.”
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô
cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi Bhaddiya bằng
những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Nhiều du sĩ ngoại đạo đã
nhìn thấy gia chủ Meṇḍaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với gia chủ
Meṇḍaka điều này:
- Này gia chủ, ngươi đi đâu vậy?
- Thưa các ngài, tôi đi để diện kiến Sa-môn Gotama.
- Này gia chủ, ngươi là người theo thuyết hành động, sao lại đi đến
diện kiến Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động? Này gia chủ, chính
Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về Pháp không hành động,
và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã khởi ý điều này: “Những người du sĩ
ngoại đạo ganh tị như thế này thì không còn nghi ngờ gì về đức Thế Tôn ấy là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nữa.” Sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe,
gia chủ Meṇḍaka đã
xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ
đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến
gia chủ Meṇḍaka
đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về
giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi
ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của Gia chủ Meṇḍaka đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng
ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật
khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có
thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp
nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến gia chủ Meṇḍaka: “Điều gì có bản tánh được sanh lên,
toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được
Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã
thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của
người khác, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch
ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che
kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng):
“Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức
Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế
Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư
sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận
lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn
nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Meṇḍaka đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng
hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến
tư gia của gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn
cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, người vợ của gia chủ Meṇḍaka cùng với con trai, con dâu, và người tớ
trai đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống
ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là
ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về
cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly.
Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không
còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã
được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa
bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ
ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những
người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh
hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được
Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã
thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của
người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch
ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che
kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng):
“Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức
Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, chúng con đây xin quy y đức
Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con
là những cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, gia chủ Meṇḍaka đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống
một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, cho đến khi nào đức Thế Tôn còn ngụ tại Bhaddiya thì
con xin dâng vật thực thường xuyên đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu
cho đến khi ấy.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho gia chủ Meṇḍaka bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[85] Cho phép sự tiên liệu về
hành trình đường xa
[85] Sau đó, khi đã ngự tại Bhaddiya theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu mà không thông báo cho gia chủ Meṇḍaka. Gia chủ Meṇḍaka đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho những người nô lệ và những người làm công rằng:
- Này các người, như thế thì sau khi chất lên các xe hàng nhiều
muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi hãy ra đi. Và một ngàn hai trăm
năm mươi người chăn bò sau khi lấy ra một ngàn hai trăm năm mươi con bò cái rồi
hãy ra đi. Nơi nào chúng ta gặp được đức Thế Tôn, ở nơi ấy chúng ta sẽ dâng sữa
tươi để (ngài) thọ dụng.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã gặp được đức Thế Tôn ở khu rừng vắng
trên đường đi. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào
ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn
nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Meṇḍaka đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng
hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến
chỗ cúng dường thức ăn của gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi
được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho một ngàn hai trăm năm
mươi người chăn bò rằng:
- Này các người, như vậy thì hãy dắt mỗi một con bò cái đến đứng
gần mỗi một vị tỳ khưu rồi dâng sữa tươi để (các vị) thọ dụng.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm
và sữa tươi. Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh sữa.
- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm
và sữa tươi. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát,
gia chủ Meṇḍaka đã
ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, có những con đường, những khu rừng vắng, ít nước, ít
vật thực, công việc không được thuận tiện nếu đi đường không tiên liệu trước. Bạch
ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép sự tiên liệu (về hành trình đường
xa) đến các vị tỳ khưu.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho gia chủ Meṇḍaka bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sản phẩm từ bò là sữa tươi
(khīraṃ), sữa đông (dadhi), sữa bơ (takkaṃ), bơ đặc (navanītaṃ), bơ lỏng (sappi). Này các tỳ khưu, có những
con đường, những khu rừng vắng, ít nước, ít vật thực, sẽ không được thuận tiện
khi đi đường nếu không tiên liệu trước. Này các tỳ khưu, vì sự tiên liệu (về
hành trình đường xa) ta cho phép tầm cầu về gạo lức với vị có nhu cầu về gạo lức,
đậu xanh với vị có nhu cầu về đậu xanh, đậu māsa (?) với vị có nhu cầu về đậu
māsa, muối với vị có nhu cầu về muối, đường với vị có nhu cầu về đường, dầu ăn
với vị có nhu cầu về dầu ăn, bơ lỏng với vị có nhu cầu về bơ lỏng. Này các tỳ
khưu, có những người dân có niềm tin đã được an trú, những người này để tiền
vàng ở tay của những người làm các vật trở thành đúng phép (kappiyakāraka) (nói
rằng): “Hãy dâng đến ngài đại đức vật đã làm trở thành đúng phép từ (số tiền)
này.” Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận vật đã làm trở thành đúng phép từ
điều ấy, nhưng này các tỳ khưu ta không nói rằng: “Vàng và bạc có thể được chấp
nhận, có thể được tầm cầu bởi bất cứ cách thức nào.”
[86] Câu chuyện về đạo sĩ bện
tóc Keṇiya. Cho phép tám loại thức uống
[86] Sau đó, đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đã ngự đến Āpaṇa. Đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nghe rằng: “Quả thật ngài Sa-môn Gotama con trai dòng Sākya, từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, nay đã ngự đến Bhaddiya và ngụ tại khu rừng Jātiyā. Tiếng đồn tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã thấu suốt thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã khởi ý điều này: “Ta nên cho người đem đến cho Sa-môn Gotama vật gì đây?” Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã khởi ý điều này: “Những người ẩn sĩ trước đây là bà-la-môn, là những người làm ra chú thuật, là những người sử dụng chú thuật, những người ấy có hình thức chú thuật cổ điển đã được ca, đã được nói ra, đã được thực hiện mà những người bà-la-môn hiện nay cũng ca theo hình thức ấy, nói ra theo hình thức ấy, giảng giải theo điều đã được giảng giải, nói lại điều đã được nói, (các vị ấy) như là: Aṭṭhako, Vāmako, Vāmadevo, Vessāmitto, Yamataggi, Aṅgiraso, Bhāradvājo, Vāseṭṭho, Kassapo, Bhagu đã không ăn vào buổi tối, đã cử kiêng việc ăn sau ngọ, các vị ấy chấp nhận các thức uống có hình thức như vầy. Sa-môn Gotama cũng không ăn vào buổi tối và kiêng cử việc ăn sau ngọ nên Sa-môn Gotama cũng xứng đáng được chấp nhận các thức uống có hình thức như vầy” nên đã cho người chuẩn bị sẵn sàng rất nhiều thức uống và cho người đem đi bằng những giỏ mang sau vai rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Xin ngài Gotama hãy thọ lãnh thức uống của tôi.
- Này Keṇiya, như vậy thì hãy dâng cho các vị tỳ khưu.
Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh.
- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với rất nhiều thức uống. Đến khi đức Thế Tôn
có cánh tay đã được rửa bàn tay đã rời khỏi bình bát, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế
Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đạo sĩ bện
tóc Keṇiya bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được
đức Thế tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài
Pháp thoại, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn
vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
- Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục
vị tỳ khưu và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn.
Đến lần thứ nhì, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một
ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào
các vị bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày
mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
- Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục
vị tỳ khưu và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn.
Đến lần thứ ba, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một
ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào
các vị bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày
mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, đạo sĩ bện
tóc Keṇiya hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn
nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tám loại thức uống: nước xoài
(amba), nước táo hồng (jambu), nước chuối hột (coca), nước chuối không hột
(moca), nước mật ong (madhu), nước nho (muddika), nước ngó sen (sāluka), nước
dâu (phārusaka). Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại nước cốt trái cây
(phalarasaṃ) ngoại
trừ nước cốt của ngũ cốc. Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại nước cốt
của lá cây (pattarasaṃ) ngoại trừ nước cốt của loại rau cải nấu chín. Này các tỳ khưu,
ta cho phép tất cả các loại nước cốt của bông hoa (puppharasaṃ) ngoại trừ nước cốt của bông cây cam thảo
(madhukapuppharasaṃ). Này các tỳ khưu, ta cho phép nước cốt của cây mía.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng
loại cứng loại mềm tại khu ẩn dật của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến
đức Thế Tôn:
- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến
khu ẩn dật của đạo sĩ bện tóc Keṇiya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi
được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, đạo sĩ bện
tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã
tùy hỷ công đức cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya đang ngồi một bên bằng những lời kệ này:
[87] Bài kệ về sự cúng dường
[87]
Trong các loại cúng tế
cúng dường lửa hạng nhất,
kinh cổ Sāvittī
đứng đầu về niêm luật.
vua đứng đầu loài người
biển đứng đầu các sông,
trăng đứng đầu các sao
mặt trời nóng nhất hạng.
Những người mong mỏi phước
cúng dường Tăng nhất hạng.
Sau khi tùy hỷ công đức cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya đang ngồi một bên bằng những lời kệ ấy,
đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[88] Câu chuyện về Roja dòng
Malla
[88] Sau đó, khi đã ngự tại Bhaddiya theo như ý thích, đức Thế
Tôn đã ra đi du hành về phía Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một
ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Những người dân Malla ở Kusinārā đã nghe rằng:
“Nghe nói đức Thế Tôn đi đến Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một
ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Họ đã ra quy định là: “Ai không đi ra đón đức
Thế Tôn sẽ bị hành phạt là năm trăm.”
Vào lúc bấy giờ, Roja người Malla là bạn của đại đức Ānanda. Khi ấy,
đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đã ngự đến Kusinārā. Những người dân
Malla ở Kusinārā đã đi ra đón đức Thế Tôn. Khi ấy, Roja người Malla đã đi ra
đón đức Thế Tôn rồi đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức
Ānanda rồi đứng ở một bên. Đại đức Ānanda đã nói với Roja người Malla đang đứng
một bên điều này:
- Này bạn Roja, thật là tuyệt vời khi bạn đã đi ra đón đức Thế
Tôn.
- Thưa ngài Ānanda, tôi không có nhiều niềm tin đối với đức Phật,
đức Pháp, hay đức Tăng, chỉ vì thân quyến đã ra quy định là: “Ai không đi ra
đón đức Thế Tôn sẽ bị hành phạt là năm trăm.” Thưa ngài Ānanda, tôi vì sợ hành
phạt như thế của thân quyến nên đã đi ra để đón đức Thế Tôn.
Khi ấy, đại đức Ānanda đã không được hoan hỷ (nghĩ rằng): “Vì sao Roja người Malla lại
nói như thế?” Sau đó, đại đức Ānanda đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã
đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồì xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức
Ānanda đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, Roja này người Malla được nổi tiếng, là người có
danh tiếng, những người có danh tiếng như thế nếu có được niềm tin trong Pháp
và Luật này sẽ là người có nhiều sự lợi ích. Bạch ngài, thật tốt đẹp thay xin đức
Thế Tôn hãy làm như thế nào đó để Roja người Malla có thể an trú niềm tin vào
Pháp và Luật này.
- Này Ānanda, điều ấy không phải là việc khó làm đối với đức Như
Lai như là việc Roja người Malla có thể an trú niềm tin vào Pháp và Luật này.
Sau đó, đức Thế Tôn đã phát ra luồng tâm bác ái đến Roja người
Malla rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào trú xá.
Khi ấy, Roja người Malla bị tràn ngập bởi luồng tâm bác ái của đức
Thế Tôn. Cũng giống như con bê con (đi tìm) bò mẹ, tương tợ như thế (Roja người
Malla )đi đến trú xá này đến trú xá khác, phòng này đến phòng khác và hỏi các vị
tỳ khưu rằng:
- Thưa ngài, bây giờ đức Thế Tôn bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác ấy
đang ngụ ở đâu vậy, bởi vì chúng tôi có ý muốn diện kiến đức Thế Tôn bậc
A-la-hán đấng Chánh Đẳng Giác ấy?
- Này đạo hữu Roja, hãy đi đến trú xá có cánh cửa đóng lại kia với
sự nhẹ nhàng và chớ có vượt qua (cánh cửa), hãy bước vào hành lang, đằng hắng,
và gõ vào thanh cài cửa, rồi đức Thế Tôn sẽ mở cửa cho đạo hữu.
Sau đó, Roja người Malla đã đi đến trú xá có cánh cửa đóng lại
kia với sự nhẹ nhàng, không có vượt qua (cánh cửa), rồi bước vào hành lang, đằng
hắng, và gõ vào thanh cài cửa. Đức Thế Tôn đã mở cánh cửa ra. Khi ấy, Roja người
Malla đã bước vào trú xá, đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế
Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến Roja người Malla. Tức là ngài đã giảng giải
bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm
hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết
được tâm của Roja người Malla đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại,
hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật
khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có
thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp
nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến Roja người Malla: “Điều
gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được
Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã
thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của
người khác, Roja người Malla đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, tốt đẹp thay nếu các ngài đại đức có thể thọ lãnh vật
dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bịnh của riêng mình con
thôi, không phải của người khác.
- Này Roja, nếu những người đã thấy được Pháp với trí tuệ của vị
hữu học, với tầm nhìn của vị hữu học như là ngươi đây thì những người ấy cũng
khởi ý như vầy: “Đương nhiên các ngài đại đức có thể thọ lãnh vật dụng là y phục,
vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bịnh của riêng mình chúng ta thôi,
không phải của người khác.” Này Roja, như thế thì các vị (tỳ khưu) sẽ thọ lãnh
của chính ngươi và của những người khác nữa.
Vào lúc bấy giờ, ở Kusinārā sự dâng vật thực theo tuần tự của các
bữa ăn hảo hạng đã được quy định. Khi ấy, Roja người Malla đã không nhận được
phiên nên đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên nhìn vào nhà ăn, trong nhà ăn
không có món gì thì ta nên cho chuẩn bị sẵn sàng món đó?” Sau đó, Roja người
Malla trong khi nhìn vào nhà ăn đã thấy không có hai món là rau xanh và bánh bột.
Khi ấy, Roja người Malla đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại
đức Ānanda điều này:
- Thưa ngài Ānanda, ở đây trong khi tôi không nhận được phiên nên
đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên nhìn vào nhà ăn, trong nhà ăn không có món
gì thì ta nên cho chuẩn bị sẵn sàng món đó?” Thưa ngài Ānanda, rồi trong khi
nhìn vào nhà ăn tôi đây đã thấy không có hai món là rau xanh và bánh bột. Thưa
ngài Ānanda, nếu tôi cho chuẩn bị sẵn sàng đức Thế Tôn có thể nhận lãnh rau
xanh và bánh bột của tôi không?
- Này Roja, như thế thì tôi sẽ hỏi đức Thế Tôn.
Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này Ānanda, như thế thì (Roja) hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
- Này Roja, như thế thì bạn hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy Roja người Malla đã cho chuẩn bị sẵn
sàng rau cải và bánh bột rồi đã đem dâng đến đức Thế Tôn.
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nhận lãnh rau cải và bánh bột.
- Này Roja, như vậy thì hãy dâng cho các vị tỳ khưu.
Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh.
- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, Roja người Malla đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với rất nhiều rau cải và bánh bột. Đến khi đức Thế Tôn có cánh tay đã được rửa bàn tay đã rời khỏi bình bát, Roja người Malla đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Roja người Malla bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp
thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại rau xanh và tất cả các loại bánh bột.
[89] Câu chuyện về vị xuất gia
lúc tuổi già nguyên là thợ cạo
[89] Sau đó, khi đã ngự tại Kusināra theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Ātumā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.
Vào lúc bấy giờ, có vị nọ trước đây là người thợ cạo và đã xuất
gia lúc tuổi già đang ngụ tại Ātumā. Vị ấy có hai người con trai dễ mến, khôn
ngoan, khéo léo, thiện nghệ trong nghề thợ cạo từ thầy của họ. Vị xuất gia lúc
tuổi già ấy đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đi đến Ātumā cùng với đại chúng
tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Khi ấy, vị xuất gia lúc
tuổi già ấy đã nói với hai người con trai ấy rằng:
- Này hai con thương, nghe nói đức Thế Tôn đi đến Ātumā cùng với
đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Này hai con
thương, hai con hãy mang theo thùng dao cạo đi từ nhà này qua nhà khác với sự
thưởng công và hãy gom góp muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng; khi đức
Thế Tôn đến chúng ta sẽ làm món nước cháo.
- Thưa cha, xin vâng.
Rồi hai người con trai ấy nghe theo lời vị xuất gia lúc tuổi già ấy
mang theo thùng dao cạo đi từ nhà này qua nhà khác với sự thưởng công đồng thời
gom góp muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng. Dân chúng sau khi nhìn thấy
hai người con trai ấy dễ mến, khôn ngoan, dầu không có ý muốn thuê làm cũng đã
bảo chúng làm, và sau khi bảo chúng làm xong đã thưởng rất nhiều. Khi ấy, hai
người con trai ấy đã gom góp nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng.
Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Ātumā. Tại
nơi ấy ở Ātumā, đức Thế Tôn ngự tại Bhūsāgāra. Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị
xuất gia lúc tuổi già ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng rất nhiều cháo rồi đã đem
dâng đến đức Thế Tôn.
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh cháo của con.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi,
biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên
quan đến lợi ích các đấng Như lai mới hỏi và không (hỏi việc) không có liên
quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để
cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu vì hai lý do: “Hoặc là
chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị xuất gia lúc tuổi già ấy điều này:
- Này tỳ khưu, cháo này từ đâu vậy?
Khi ấy, vị xuất gia lúc tuổi già ấy đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp,
không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này kẻ rồ dại, vì sao
ngươi là vị xuất gia lại bảo người khác làm việc không được phép? Này kẻ rồ dại,
sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như
trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị xuất gia không nên bảo người khác làm việc
không được phép; vị nào bảo làm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, vị trước đây là
thợ cạo không nên mang theo thùng dao cạo; vị nào mang theo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, khi đã ngự tại Ātumā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra
đi du hành về phía thành Sāvatthi. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế
Tôn đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi ấy ở thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngụ tại
Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Sāvatthi loại vật thực cứng là
trái cây được dồi dào. Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Loại vật thực
cứng là trái cây nào đã được cho phép, loại nào không được cho phép?” Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại vật thực cứng là
trái cây.
[91] Phân chia sự thâu hoạch về
trồng trọt
[91] Vào lúc bấy giờ, các hạt giống của hội chúng được gieo trồng trên vùng đất của cá nhân, các hạt giống của các cá nhân được gieo trồng trên vùng đất của hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các hạt giống của hội chúng đã được gieo trồng
trên vùng đất của cá nhân nên được thọ dụng sau khi đã cho chia phần. Các hạt
giống của các cá nhân đã được gieo trồng trên vùng đất của hội chúng nên được
thọ dụng sau khi đã cho chia phần.
[92] Bốn pháp dung hòa
[92] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu khởi lên sự ngần ngại về vấn
đề này về vấn đề nọ: “Điều nào đã được đức Thế Tôn cho phép, điều nào đã không
được cho phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cấm rằng: “Điều này không được
phép,” và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được
phép, đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cấm rằng: “Điều này không được
phép,” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được
phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cho phép rằng: “Điều này được
phép,” và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được
phép, đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép,” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
[93] Sử dụng các loại vật thực
[93] Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vật dùng đến hết đêm (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép? Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép? Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép?[16]
Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết đêm là được
phép, hay là không được phép? Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết
đêm là được phép, hay là không được phép?
Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng trong bảy ngày là được
phép, hay là không được phép?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vật dùng đến hết đêm (trộn lẫn) với vật dùng đến
hết ngọ (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi
thời không được phép. Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết
ngọ (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi thời
không được phép. Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ (nếu) được
thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi thời không được
phép.
Này các tỳ khưu, vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng
đến hết đêm (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong đêm,
không được phép khi đêm đã trôi qua. Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng
đến hết đêm (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong đêm,
không được phép khi đêm đã trôi qua.
Này các tỳ khưu, vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng trong
bảy ngày (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong bảy ngày,
không được phép khi bảy ngày đã trôi qua.
Hết Chương 6 Dược Phẩm
Trong chương này có một trăm lẻ
sáu sự việc.
Tóm lược chương này:
[94] Bài kệ tóm lược
[94]
Vào mùa thu, sái giờ,
mỡ thú, trong rễ cây,
với các loại bột nghiền,
các nước sắc, lá cây,
trái cây, nhựa thân cây,
và muối gồm sáu loại.
bột tắm, rây, thịt sống,
thuốc bôi, bột nghiền nát,
hộp thuốc bôi các loại,
không đậy, que bôi thuốc,
hộp đựng que bôi thuốc,
túi mang vai, thắt lại,
sợi chỉ, dầu xoa đầu,
lỗ mũi, muỗng ở mũi,
hít khói, và ống dẫn,
nắp đậy, và túi đựng.
Và rượu trong dầu nấu,
đổ nhiều, làm thuốc thoa
bình chứa, dùng hơi nóng,
của nhiều loại lá cây,
nhiều hơi, nước lá cây,
bể nước ngâm, trích máu,
ống sừng, cao bôi chân,
sự phòng ngừa, dao mổ,
nước đông máu, cao mè,
vải cầm máu, băng vải,
bột mù-tạt, xông khói,
thịt lồi, dầu vết thương,
băng vải, các lối chữa,
được thọ lãnh, phân dơ,
đang thực hiện, đất cày,
tro, nước tiểu, da vàng,
mùi thơm, và thuốc xổ,
nước xúp không chất béo,
thêm chút ít chất béo,
mùi vị thịt, hang núi,
tu viện, và bảy ngày,
đường, đậu tây, cháo chua,
tự mình nấu, nấu lại,
lại cho phép, thiếu ăn,
trái cây, mè, vật nhai,
trước bữa, sốt toàn thân
lấy hết hột, lở loét,
và công việc bơm thụt.
Chuyện nàng Suppiyā
lại thêm chuyện thịt người,
voi, ngựa, và chó nhà,
rắn, sư tử, và beo,
thịt gấu rừng, chó sói.
Chờ đến phiên, và cháo,
(đức tin) còn non trẻ,
thêm chuyện nữa về đường.
Sunīdha, nhà nghỉ,
sông Hằng, làng Koṭi,
thuyết giảng về Chân Lý
nàng Ambapālī,
các vị Licchavi,
đã làm được chỉ định,
lúc vật thực dễ dàng,
ngài đã cấm trở lại.
Mây đen, Yasoja,
và chuyện Meṇḍaka,
sản phẩm từ loài bò,
tiên liệu cho đường xa.
Đạo sĩ Keṇiya,
nước xoài, nước táo hồng
chuối có hột, không hột,
nước mật, nước trái nho,
nước ngó sen, nước dâu,
rau xanh và bánh bột,
thợ cạo Ātumā.
(Về lại) Sāvatthi,
trái cây, hột giống trồng.
Thuộc về trường hợp nào?
và thời gian quy định.
[1] Trong trường hợp liên quan
đến vật thực, đúng thời là trước ngọ, phi thời là sau ngọ cho đến rạng đông của
ngày kế.
[2] Các từ điển và lời giải
thích của ngài Buddhaghosa không được hữu dụng lắm để tìm ra ý nghĩa rõ ràng của
các loại thảo mộc.
[3] Liên quan đến tội
pācittiya (ưng đối trị) 51.
[4] Được ghi lại nghĩa theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa. Một số trường hợp khác cũng được dịch theo
cách như vậy, trong trường hợp cần thiết, chúng tôi có đính kèm từ Pāli.
[5] Liên quan đến tội
nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) 23.
[6] Kaṅkhā có nghĩa là sự hoài nghi, sự nghi ngờ, sự không chắc chắn.
Sau khi dịch tiếp phần dưới, chúng tôi nghĩ rằng đây có thể là biệt hiệu của vị
tỳ khưu tên Revata; như thế tên vị ấy có thể dịch là “Revata đa nghi.”
[7] Không rõ loại đậu này là
loại đậu gì? Ngài Buddhaghosa giải thích: “Chúng được phép vì đã được nấu
chín.” Theo mạch văn, chúng tôi nghĩ rằng loại hạt này dầu đã được nấu chín, và
trải qua quá trình tiêu hóa, rồi được thải ra theo đường phân vẫn có thể nẩy mầm
và mọc thành cây; nhưng vẫn không nghĩ ra được loại hạt gì có khả năng ấy.
[8] Ngài Buddhaghosa giải
thích anto là akappiyakuṭiyaṃ nghĩa là không phải ở nhà làm thành được phép. Xem thêm
kappiyabhūmi là khu vực làm thành được phép ở bên dưới [82].
[9] Dựa vào lời giải thích ở
phần trên của ngài Buddhaghosa thì bên ngoài (bahi) là ở nhà làm thành được
phép.
[10] Nên lưu ý rằng một số điều
được đức Thế Tôn cho phép như điều này và các điều kế tiếp chỉ được áp dụng
trong thời kỳ vật thực khó khăn.
[11] Liên quan đến tội
pācittiya (ưng đối trị) 33.
[12] Pāṭaligāma là một làng (gāma) và Pāṭaliputta thuộc xứ Magadha, nay
là thành phố Patna, Ấn Độ.
[13] Một trong sáu vị đứng đầu
sáu nhóm ngoại đạo thời đó.
[14] Nếu cá và thú ấy bị giết
với sự xác định là sẽ làm thức ăn cho một cá nhân nào đó thọ dụng thì cá nhân
người ấy không nên ăn.
[15] Liên quan đến tội
pācittiya (ưng đối trị) 35.
[16] Vật dùng đến hết ngọ:
Yāvakālika. Vật dùng đến hết đêm: Yāmakālika.Vật dùng trong bảy ngày:
Sattāhakālika. Vật dùng suốt đời: Yāvajīvika.
Hết Chương 6 - Quay Về Mục Lục Chương 6
Xem Chương 7 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments