Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 6. Dược Phẩm - Tụng Phẩm 1

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 6. Dược Phẩm (Bhesajjakkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ nhất

Mục Lục

[25] Giảng về năm loại dược phẩm

[27] Giảng về các loại dược phẩm: mỡ thú, rễ cây, nước sắc, lá cây...

[34] Câu chuyện về trưởng lão Velaṭṭhasīsa

[36] Bệnh liên quan đến phi nhân, bệnh ở mắt, thuốc bôi ở mắt...

[38] Các loại bệnh của trưởng lão Pilindavaccha: bệnh nóng đầu, bệnh gió, bệnh phong thấp, bệnh thấp khớp, bệnh chân nứt nẻ

[42] Một số bệnh và cách chữa trị: bệnh mụt nhọt, bị rắn cắn, bị độc dược, bị yếm bùa, bệnh trĩ, bệnh vàng da...

[45] Câu chuyện về trưởng lão Pilindavaccha và vua Seniya Bimbisāra: Sự cho phép về người giúp việc tu viện. Thị hiện thần thông. Thời hạn bảy ngày cho năm loại dược phẩm

Nội Dung

[25] Giảng về năm loại dược phẩm

 [25] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda, điều gì khiến các vị tỳ khưu trong lúc này lại ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?

- Bạch ngài, trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.

Sau đó, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Vậy ta nên cho phép các vị tỳ khưu loại dược phẩm gì mà chính loại dược phẩm ấy tuy đã được quy định là dược phẩm lại có thể được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường?”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Năm loại dược phẩm này như là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanīta), dầu ăn (tela), mật ong (madhu), đường mía (phāita) là các loại dược phẩm, tuy đã được quy định là dược phẩm và được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường; có lẽ ta nên cho phép các tỳ khưu được thọ lãnh năm loại dược phẩm này đúng thời và thọ dụng đúng thời?”

Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ở đây ta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Vậy ta nên cho phép loại dược phẩm gì cho các tỳ khưu mà chính loại dược phẩm ấy tuy đã được quy định là dược phẩm lại có thể được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường?” Này các tỳ khưu, ta đây đã khởi ý điều này: “Năm loại dược phẩm này như là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanīta), dầu ăn (tela), mật ong (madhu), đường mía (phāita) là các loại dược phẩm tuy đã được quy định là dược phẩm và được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường; có lẽ ta nên cho phép các tỳ khưu được thọ lãnh năm loại dược phẩm này đúng thời và thọ dụng đúng thời?” Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. [1]

[26] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi nhận lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. Các vị đã không ăn các loại thức ăn thô thông thường và (ăn) các loại (thức ăn) có dầu mỡ còn ít hơn nữa. Các vị không những đã bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu ấy lại thêm vào việc không chịu thu nạp thức ăn này nữa, vì hai điều ấy vóc dáng (của các vị) càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa. Và đức Thế Tôn đã nhận thấy các vị tỳ khưu ấy có vóc dáng càng ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda, trong lúc này điều gì khiến các vị tỳ khưu có vóc dáng càng ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa?

- Bạch ngài, trong lúc này các vị tỳ khưu sau khi nhận lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. Các vị đã không ăn các loại thức ăn thô thông thường và (ăn) các loại (thức ăn) có dầu mỡ còn ít hơn nữa. Các vị không những đã bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu ấy lại thêm vào việc không chịu thu nạp thức ăn này nữa, vì hai điều ấy vóc dáng (của các vị) càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh năm loại dược phẩm này và thọ dụng đúng thời luôn cả phi thời.

[27] Giảng về các loại dược phẩm: mỡ thú, rễ cây, nước sắc, lá cây...

 [27] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại mỡ (thú vật). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng chung với dầu ăn các loại dược phẩm là các loại mỡ (thú vật) như mỡ gấu, mỡ cá, mỡ cá sấu, mỡ heo rừng, mỡ lừa đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung đúng thời. Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh phi thời, đã được nấu phi thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm ba tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu phi thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm hai tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung đúng thời, vị thọ dụng (vật ấy) vô tội.

[28] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại rễ cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại rễ cây như củ nghệ, củ gừng, rễ cây vaca (?),[2] rễ cây vaca trắng (?), rễ cây ngải cứu, rễ cây kaukarohiī (?), rễ loại cây có mùi thơm usīra (?), rễ loại cỏ có mùi thơm bhaddamuttaka (?), hoặc có các loại dược phẩm là các rễ cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm dạng bột là các loại rễ cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cối đá xay và cối đá xay loại nhỏ.

[29] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại nước sắc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại nước sắc như nước sắc của cây nimba (?), nước sắc của cây kuaja (?), nước sắc của loại dưa dài paola (?), nước sắc của loại dây leo phaggava (?), nước sắc của cây nattamāla (?), hoặc có các loại dược phẩm là các loại nước sắc khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

[30] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại lá cây làm dược phẩm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại lá cây làm dược phẩm như lá cây nimba (?), lá cây kuaja (?), lá cây của loại dưa dài paola (?), lá cây húng quế, lá cây bông vải, hoặc có các loại dược phẩm là các loại lá cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

[31] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại trái cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại trái cây như trái cây vilaga (?), hạt tiêu dài (pipphali), hạt tiêu đen (marica), trái cây harītaka (?), trái cây vibhītaka (?), trái cây āmalaka (?), trái cây goha (?) hoặc có các loại dược phẩm là các loại trái cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

[32] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại nhựa cây làm dược phẩm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại nhựa cây làm dược phẩm như higu (?), nhựa cây higu (higujatu), mủ cây higu (higusipātika), các loại sản phẩm từ mủ cây là taka (?), takapatti (?), takapaṇṇi (?), nhựa thông (sajjulasa), hoặc có các loại dược phẩm là các loại nhựa cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

[33] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại muối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại muối (loa) như muối biển (sāmudda), muối đen (kāaloa), muối ở đá (sindhava), muối nấu ăn (ubbhida), muối mỏ (bila), hoặc có các loại dược phẩm là các loại muối khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaa (tác ác).

[34] Câu chuyện về trưởng lão Velaṭṭhasīsa

 [34] Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Ānanda là đại đức Velaṭṭhasīsa có bệnh ghẻ sần sùi (thullakacchābādho). Các y của vị ấy bị dính vào thân vì chất máu mủ. Các vị tỳ khưu liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này bị bệnh gì vậy?

- Bạch ngài, đại đức này bị bệnh ghẻ sần sùi, các y bị dính vào thân vì chất máu mủ, chúng con liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại bột tắm đến vị bị ghẻ ngứa, hoặc bị nhọt, hoặc có vết thương chảy mủ, hoặc bị ghẻ sần sùi, hoặc cơ thể có mùi hôi, và phân bò (chakana), đất sét (mattika), chất màu đã được nấu (rajananipakka) đến vị không bị bệnh. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cối giã và chày.

[35] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại bột tắm đã được rây mịn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái rây bột tắm.

Có nhu cầu về hạt rất mịn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái rây bằng vải.

[36] Bệnh liên quan đến phi nhân, bệnh ở mắt, thuốc bôi ở mắt...

 [36] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh liên quan đến phi nhân. Các vị thầy dạy học và thầy tế độ thường xuyên chăm sóc vị ấy nhưng không thể làm cho khỏi bệnh. Vị ấy đã đi đến lò mổ heo ăn thịt sống và uống máu tươi. Bệnh liên quan đến phi nhân của vị ấy giảm bớt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thịt sống và máu tươi trong khi bị bệnh liên quan đến phi nhân.

[37] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở mắt. Các tỳ khưu đã khiêng vị ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đang khiêng vị tỳ khưu ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này có bệnh gì vậy?

- Bạch ngài, đại đức này có bệnh ở mắt. Chúng con khiêng vị này đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc bôi, thuốc bôi màu đen, thuốc bôi loại tinh chất, thuốc bôi vào tai, bột phấn đỏ, muội đèn.

Có nhu cầu về bột mịn để làm thuốc bôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gỗ đàn hương, loại cây có mùi hương tagara (?), gỗ trầm (kāānusāri), gỗ cây tālīsa (?), loại cỏ có mùi thơm bhaddamuttaka (?).

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu để các loại thuốc bôi được nghiền nát ở trong các tô nhỏ và trong các chén. Chúng đã bị rác cỏ, bụi bặm rơi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hộp chứa thuốc bôi.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các hộp chứa thuốc bôi loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các hộp chứa thuốc bôi loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (hộp chứa thuốc bôi) làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.

Vào lúc bấy giờ, các hộp chứa thuốc bôi không được đậy lại. Chúng đã bị rác cỏ, bụi bặm rơi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.

Nắp đậy bị rơi xuống.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (nắp đậy) với sợi chỉ rồi buộc vào hộp chứa thuốc bôi.

 Hộp chứa thuốc bôi bị bung ra.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu lại bằng sợi chỉ.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu dùng ngón tay bôi thuốc. Các con mắt bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) que bôi thuốc.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các que bôi thuốc loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các que bôi thuốc loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, ...(như trên)..., làm bằng vỏ sò.

Vào lúc bấy giờ, que bôi thuốc bị rơi trên mặt đất và trở nên sần sùi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hộp đựng que bôi thuốc.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu mang theo hộp chứa thuốc bôi và các que bôi thuốc bằng tay. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng các hộp chứa thuốc bôi.

Dây mang vai không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.

[38] Các loại bệnh của trưởng lão Pilindavaccha: bệnh nóng đầu, bệnh gió, bệnh phong thấp, bệnh thấp khớp, bệnh chân nứt nẻ

 [38] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị nóng ở đầu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (bôi) dầu ở trên đầu.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) việc chữa trị ở mũi.

Mũi bị chảy nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái muỗng đặt ở mũi (natthukaraī).

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các muỗng đặt ở mũi loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các muỗng đặt ở mũi loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, ...(như trên)..., làm bằng vỏ sò.

(Hai lỗ) mũi đã không được nhỏ đồng đều. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái muỗng đặt ở mũi loại kép.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép hít khói.

Các vị sau khi đốt cháy sợi bấc rồi hít khói vào. Cổ họng bị (lửa) đốt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ống dẫn khói.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các ống dẫn khói loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các ống dẫn khói loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, ...(như trên)..., làm bằng vỏ sò.

Vào lúc bấy giờ, các ống dẫn khói không có nắp đậy, các sinh vật nhỏ đã đi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu mang theo các ống dẫn khói bằng tay. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng các ống dẫn khói.

Chúng bị cọ xát với nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đôi.

Dây mang vai không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.

[39] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị bệnh gió. Các thầy thuốc đã nói như vầy:

- Dầu cần được nấu.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép việc nấu dầu.

Rượu mạnh cần được thêm vào trong dầu nấu ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép thêm rượu mạnh vào trong dầu nấu.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nấu các loại dầu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh. Các vị uống các thứ ấy và bị say. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, không nên uống dầu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh; vị nào uống thì nên được hành xử theo Pháp.[3] Này các tỳ khưu, trong loại dầu nấu nào (được thêm vào rượu mạnh) mà màu sắc, mùi, vị của rượu mạnh không nhận ra được, ta cho phép uống dầu được thêm vào rượu mạnh loại như thế.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu có nhiều dầu nấu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh. Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Nên thực hành như thế nào với các thứ dầu đã được thêm vào quá nhiều rượu mạnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép quy định làm thuốc thoa.

Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha có nhiều dầu đã được nấu. Vị ấy không có đồ chứa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bình chứa: bình chứa bằng đồng, bình chứa bằng gỗ, bình chứa làm bằng trái cây.

Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị phong thấp (agavāta). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép việc điều trị bằng hơi nóng.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hơi nóng của nhiều loại lá cây.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nhiều hơi nóng.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước nấu của nhiều loại lá cây.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bể nước lớn (để ngâm mình).

[40] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị thấp khớp (pabbavāta). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép trích máu.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trích máu rồi lấy ra bằng ống sừng.

[41] Vào lúc bấy giờ, các bàn chân của đại đức Pilindavaccha bị nứt nẻ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

-Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc bôi chân.

(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép áp dụng phương pháp phòng ngừa.

[42] Một số bệnh và cách chữa trị: bệnh mụt nhọt, bị rắn cắn, bị độc dược, bị yếm bùa, bệnh trĩ, bệnh vàng da...

 [42] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị mụt nhọt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc mổ xẻ.

Có nhu cầu về nước làm đông máu.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước làm đông máu.

Có nhu cầu về thuốc cao làm từ mè.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao làm từ mè.

Có nhu cầu về vải cầm máu.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải cầm máu.

Có nhu cầu về vải băng vết thương.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải băng vết thương.

Vết thương gây ngứa.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép rửa với bột mù-tạt (sāsapakuḍḍa).

Vết thương bị làm mủ.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện việc xông khói.

Thịt ở vết thương bị lồi lên (như cây gai).

- Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt bằng mảnh sứ tẩm muối.

Vết thương không liền lại.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dầu xức vết thương.

Dầu bị chảy.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) băng vải và tất cả các cách chữa trị vết thương.

[43] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép bố thí bốn loại vật dơ có tính quan trọng là: phân, nước tiểu, tro, và đất sét.

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “(Có thể sử dụng bốn vật này) khi chưa được thọ lãnh hay cần phải được thọ lãnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh nếu có người làm cho đúng phép, nếu không có người làm cho đúng phép thì tự mình thu nhặt và thọ dụng .

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị uống nhằm thuốc độc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống phân.

Khi ấy, các vị tỳ khưu khởi ý điều này: “(Có thể sử dụng vật ấy) khi chưa được thọ lãnh hay cần phải được thọ lãnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị ấy thọ lãnh trong khi thực hiện vật ấy, khi vật ấy đã thọ lãnh và đã được thực hiện xong không cần phải thọ lãnh lại lần nữa.

[44] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh yểm bùa (gharadinnakābādho).[4] Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống nước bùn lấy từ đất ở lưỡi cày vừa mới cày đất lên.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh trĩ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống nước tro của cơm khô.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh vàng da. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống (hợp chất) nước tiểu và harīaka.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ngoài da. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mỡ có mùi thơm.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có cơ thể bốc mùi hôi khủng khiếp. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống thuốc xổ.

Có nhu cầu về nước cháo trắng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước cháo trắng.

Có nhu cầu về nước xúp không có chất béo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước xúp không có chất béo.

Có nhu cầu về nước xúp đã thêm chút ít chất béo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước xúp đã thêm chút ít chất béo.

Có nhu cầu về mùi vị của thịt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mùi vị của thịt.

[45] Câu chuyện về trưởng lão Pilindavaccha và vua Seniya Bimbisāra: Sự cho phép về người giúp việc tu viện. Thị hiện thần thông. Thời hạn bảy ngày cho năm loại dược phẩm

 [45] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi ở thành Rājagaha (Vương Xá). Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra (Bình Sa Vương) xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:

- Thưa ngài, ngài trưởng lão cho làm cái gì vậy?

- Tâu đại vương, tôi có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi.

- Thưa ngài, ngài có nhu cầu về người giúp việc tu viện (ārāmika) không?

- Tâu đại vương, đức Thế Tôn chưa cho phép về người giúp việc tu viện.

- Thưa ngài, chính vì việc đó ngài hãy hỏi đức Thế Tôn rồi báo cho trẫm biết.

- Tâu đại vương, xin vâng. Đại đức Pilindavaccha đã đáp lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.

Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Pilindavaccha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Pilindavaccha, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã phái sứ giả đi đến gặp đức Thế Tôn (thưa rằng):

- Bạch ngài, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý muốn ban cho người giúp việc tu viện. Bạch ngài, vậy nên thực hành như thế nào?

Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép người giúp việc tu viện.

Đến lần thứ nhì, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:

- Thưa ngài, người giúp việc tu viện có được đức Thế Tôn cho phép không?

- Tâu đại vương, đã được rồi.

- Thưa ngài, như vậy thì trẫm ban cho ngài người giúp việc tu viện.

Sau đó, khi đã hứa với đại đức Pilindavaccha về người giúp việc tu viện, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã không ghi nhớ. Một thời gian sau, khi đã phục hồi lại ký ức đức vua đã bảo viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng:

- Này khanh, người giúp việc tu viện đã được trẫm hứa với ngài đại đức, người giúp việc tu viện ấy đã được ban cho chưa?

- Tâu bệ hạ, người giúp việc tu viện chưa được ban đến ngài đại đức.

- Này khanh, tính đến đêm nay là đã bao lâu rồi vậy?

Khi ấy, viên quan đại thần ấy sau khi tính đếm số lượng đêm rồi đã tâu với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:

- Tâu bệ hạ, năm trăm đêm.

- Này khanh, như vậy thì hãy ban cho ngài đại đức năm trăm người giúp việc tu viện.

- Tâu bệ hạ, xin vâng.

Rồi vị quan đại thần ấy đã vâng lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha và dâng đến đại đức Pilindavaccha năm trăm người giúp việc tu viện. Một ngôi làng riêng biệt đã được thiết lập. Họ đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng của những người giúp việc tu viện.” Họ cũng đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng Pilindavaccha.”

[46] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha là vị thường hay lui tới trong ngôi làng ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Vào lúc bấy giờ, trong ngôi làng ấy có lễ hội. Những đứa trẻ nhỏ được trang điểm, đeo vòng hoa, và chơi đùa. Khi ấy, trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha, đại đức Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, đứa bé gái con của người đàn bà giúp việc tu viện ấy nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc:

- Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.

Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:

- Vì sao đứa bé gái này khóc vậy?

- Thưa ngài, đứa bé gái này nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc: “Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.” Chúng tôi lâm cảnh khó khăn, lấy đâu ra vòng hoa, lấy đâu ra đồ trang sức?

Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã nhặt lấy một nắm cỏ nọ rồi nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:

- Vậy hãy đội nắm cỏ này lên đầu của đứa bé gái kia đi.

Khi ấy, người đàn bà giúp việc tu viện ấy đã cầm lấy nắm cỏ ấy rồi đội lên đầu của đứa bé gái ấy. Vòng cỏ ấy đã trở thành vòng hoa bằng vàng, đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Dân chúng đã trình báo lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rằng:

- Tâu bệ hạ, trong nhà của người giúp việc tu viện kia có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của bệ hạ cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.

Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho lệnh bắt giữ gia đình của người giúp việc tu viện ấy.

Đến lần thứ nhì, vào buổi sáng đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha, đại đức Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã hỏi những người hàng xóm rằng:

- Gia đình của người giúp việc tu viện này đã đi đâu?

- Thưa ngài, bọn họ đã bị đức vua ra lệnh bắt giữ vì nguyên nhân vòng hoa bằng vàng ấy.

Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã đi đến ngự viện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Pilindavaccha đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này:

- Tâu đại vương, vì sao gia đình của người giúp việc tu viện lại bị ra lệnh bắt giữ?

- Thưa ngài, trong nhà của người giúp việc tu viện ấy có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của trẫm cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.

Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chú nguyện rằng: “Cung điện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha là vàng;” cung điện ấy đã trở thành hoàn toàn làm bằng vàng.

- Tâu đại vương, do đâu đại vương lại có nhiều vàng đến thế này?

- Thưa ngài, trẫm đã hiểu rồi. Chính việc ấy là năng lực thần thông của ngài đại đức.

Rồi đức vua đã ra lệnh thả gia đình của người giúp việc tu viện ấy.

[47] Dân chúng (đồn rằng): “Nghe nói ngài đại đức Pilindavaccha đã phô bày điều kỳ diệu của thần thông là pháp thượng nhân trước triều thần có cả đức vua nữa!” nên đã hoan h, có niềm tin cao độ, rồi đã đem đến dâng đại đức Pilindavaccha năm loại dược phẩm như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Và đại đức Pilindavaccha trở thành người thường xuyên thọ lãnh năm loại dược phẩm và phân phát cho hội chúng mỗi khi được thọ lãnh. Rồi tiếp tục được thọ lãnh và hội chúng của vị ấy trở nên dư dã. Sau khi chứa đầy các hũ và các chum, các vị xếp chúng một bên; sau khi chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách, các vị treo lên ở các cửa sổ. Các loại dược phẩm ấy đã bị rỉ xuống chảy ra và vẫn ở nguyên chỗ. Các trú xá đã có các con chuột xuất hiện rải rác rồi tràn ngập. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các sa-môn Thích tử này là những người tích trữ đồ đạc trong nhà giống như là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha vậy.

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu lại chấp nhận sự thặng dư như thế này?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu chấp nhận sự thặng dư như thế ấy, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

...(như trên)... Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, các loại dược phẩm thích hợp cho các tỳ khưu bị bệnh như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, sau khi thọ lãnh chúng rồi nên được thọ dụng và thời hạn tối đa bảy ngày là thời hạn tích trữ; nếu vượt quá thời hạn ấy thì nên được hành xử theo Pháp.[5]

Hết Tụng phẩm 1 Dược Phẩm Được Cho Phép

Xem Tụng Phẩm 2 - Quay Về Mục Lục Chương 6

Xem Chương 7 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments