Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 4. Lễ PAVĀRAṆĀ - Tụng Phẩm 2

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 4. Lễ Pavāraā (Pavāraākkhandhaka)

2. Tụng phẩm thứ nhì


Mục Lục

[233] Mười lăm trường hợp được vô tội

[234] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

[235] Mười lăm trường hợp nghi ngờ

[236] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại

[237] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ

[238] Lễ Pavāraā liên quan đến các vị thường trú và vãng lai

[241] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Pavāraā

[243] Không nên thỉnh cầu khi có tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự...

Nội Dung

[233] Mười lăm trường hợp được vô tội

 [233] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú đã tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi đã thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.

Hết 15 trường hợp vô tội

[234] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

 [234] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên, ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

[235] Mười lăm trường hợp nghi ngờ

 [235] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên, ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp nghi ngờ

[236] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại

 [236] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên, ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp có sự ngần ngại

[237] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ

 [237] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên, ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Hết 15 trường hợp có dự tính chia rẽ

[238] Lễ Pavāraā liên quan đến các vị thường trú và vãng lai

 [238] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, ...(như trên)... Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới, ...(như trên)... Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba của vị thường trú với vị thường trú, của vị vãng lai với vị thường trú, của vị thường trú với vị vãng lai, của vị vãng lai với vị vãng lai; theo cách thức thêm vào những phần tương tợ thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.

[239] Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā. Nếu (có số lượng) bằng nhau và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā.  Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā.

[240] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, tọa cụ khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

[241] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Pavāraā

 [241] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc nhóm cộng trú khác (nānāsavāsaka). Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú (samānasasāsaka), sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ...(như trên)... Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác lại không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ...(như trên)... Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội.

[242] Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... nơi không phải là chỗ trú ngụ ...(như trên)... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ...(như trên)... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

[243] Không nên thỉnh cầu khi có tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự...

 [243] Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự ... có vị sa di ... có vị sa di ni ... có người đã từ bỏ điều học ... có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp. Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ... có vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp.[3]

Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ... có kẻ đã chuyển sang ngoại đạo ... có loài thú ... có kẻ giết mẹ ... có kẻ giết cha ... có kẻ giết A-la-hán ... có kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni ... có kẻ chia rẽ hội chúng ... có kẻ làm chảy máu đức Phật ... có kẻ lưỡng căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, lễ Pavāraā không nên tiến hành với việc bày tỏ lời thỉnh cầu của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly (avuṭṭhitāya parisāya).[4]

Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Pavāraā không nhằm ngày Pavāraā trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.

Hết tụng phẩm 2

Xem Tụng Phẩm 3 Quay Về Mục Lục Chương 4

Xem Chương 5 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments