Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 4. Lễ PAVĀRAṆĀ - Tụng Phẩm 3

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 4. Lễ Pavāraā (Pavāraākkhandhaka)

3. Tụng phẩm thứ ba


Mục Lục

[244] Các trường hợp tiến hành lễ Pavāraā khi có sự bận rộn và nguy hiểm

[245] Đình chỉ lễ Pavāraā

[246] Lễ Pavāraā đã không bị đình chỉ, đã bị đình chỉ

[247] Giảng giải về sự đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu

[248] Các trường hợp sám hối tội trong ngày lễ Pavāraā

[250] Câu chuyện về các vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ...

[251] Sự đồng thuận về lễ Pavāraā (Pavāranāsagaha)

[252] Bài kệ tóm lược

Nội Dung

[244] Các trường hợp tiến hành lễ Pavāraā khi có sự bận rộn và nguy hiểm

 [244] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraā đã có sự sợ hãi vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu ba lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hai lần đọc.

Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu hai lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu một lần đọc.

Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu một lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu (cùng một lượt) theo sự đồng năm tu (samānavassika).

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý rằng: “Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, trong khi các vị tỳ khưu đang giảng Pháp, trong khi các vị chuyên về Kinh đang trùng tụng về Kinh, trong khi các vị chuyên về Luật đang hỏi về Luật, trong khi các vị Pháp sư đang thảo luận về Pháp, trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn kéo đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, có sự nguy hiểm từ đức vua. ...(như trên)... có sự nguy hiểm vì trộm cướp, có sự nguy hiểm vì hỏa hoạn, có sự nguy hiểm vì nước ngập, có sự nguy hiểm vì loài người, có sự nguy hiểm vì phi nhân, có sự nguy hiểm vì thú dữ, có sự nguy hiểm vì rắn, có sự nguy hiểm cho mạng sống, có sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”

[245] Đình chỉ lễ Pavāraā

 [245] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư là những vị có phạm tội tiến hành lễ Pavāraā. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vị có phạm tội không nên thỉnh cầu; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, vị nào có phạm tội mà thỉnh cầu thì ta cho phép buộc tội vị ấy sau khi đã thỉnh ý trước.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi được thỉnh ý trước đã không ưng thuận để cho thỉnh ý (okāsa kātu). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép đình chỉ lễ Pavāraā đối với vị không để cho thỉnh ý. Và này các tỳ khưu, nên đình chỉ như vầy: Vào ngày lễ Pavāraā là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong khi nhân vật ấy có hiện diện ở giữa hội chúng, nên trình lên rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) có phạm tội vẫn thỉnh cầu. Tôi đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā)[5] của vị ấy. Không nên thỉnh cầu (tiến hành lễ Pavāraā) trong sự hiện diện của vị ấy.” Sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) đã được đình chỉ.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Trước hết, các vị tỳ khưu hiền thiện sẽ đình chỉ lễ Pavāraā của chúng ta” nên ra tay trước đình chỉ lễ Pavāraā của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội không có cơ sở không có nguyên nhân, (đồng thời) đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của các vị đã thỉnh cầu xong (đã hành xong lễ Pavāraā). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên đình chỉ lễ Pavāraā của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở không có nguyên nhân; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của các vị đã thỉnh cầu xong (đã hành xong lễ Pavāraā); vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[246] Lễ Pavāraā đã không bị đình chỉ, đã bị đình chỉ

 [246] Này các tỳ khưu, như vầy là lễ Pavāraā bị đình chỉ, như vầy là không bị đình chỉ.

Này các tỳ khưu, thế nào là lễ Pavāraā không bị đình chỉ?

Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā ba lần đọc, nếu đình chỉ lễ Pavāraā vào lúc đã đọc, đã nói, đã hoàn tất thì lễ Pavāraā không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā hai lần đọc, nếu ... Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā một lần đọc, nếu ... Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đình chỉ lễ Pavāraā vào lúc đã đọc, đã nói, đã hoàn tất thì lễ Pavāraā không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là lễ Pavāraā không bị đình chỉ.

Này các tỳ khưu, thế nào là lễ Pavāraā bị đình chỉ?

Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā ba lần đọc, nếu đình chỉ lễ Pavāraā trong lúc được đọc, được nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì lễ Pavāraā bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā hai lần đọc, nếu ... Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā một lần đọc, nếu ... Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraā (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đình chỉ lễ Pavāraā trong lúc được đọc, được nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì lễ Pavāraā bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là lễ Pavāraā bị đình chỉ.

[247] Giảng giải về sự đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu

 [247] Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân không được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này, đại đức đình chỉ vị này do điều gì? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về giới? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về giới. Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Đại đức có biết sự hư hỏng về giới không? Đại đức có biết sự hư hỏng về hạnh kiểm không? Đại đức có biết sự hư hỏng về tri kiến không?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi biết sự hư hỏng về giới. Tôi biết sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tôi biết sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, điều gì là sự hư hỏng về giới? Điều gì là sự hư hỏng về hạnh kiểm? Điều gì là sự hư hỏng về tri kiến?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Bốn pārājika (bất cộng trụ), mười ba saghādisesa (tăng tàng), đó là sự hư hỏng về giới. Tội thullaccaya (trọng tội), pācittiya (ưng đối trị), pāidesanīya (ưng phát lộ), dukkaa (tác ác), dubbhāsita (ác khẩu), đó là sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tà kiến, tri kiến cực đoan, đó là sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này, có phải đại đức đình chỉ do đã được thấy,? Có phải đại đức đình chỉ do đã được nghe? Có phải đại đức đình chỉ do sự nghi ngờ?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đình chỉ do đã được thấy,. Hoặc là tôi đình chỉ do đã được nghe. Hoặc là tôi đình chỉ do sự nghi ngờ.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do đã được thấy, đại đức đã thấy gì? Đại đức đã thấy thế nào? Đại đức đã thấy khi nào? Đại đức đã thấy ở đâu? Có phải đại đức đã thấy vị này đang phạm pārājika? Đã thấy (vị này) đang phạm saghādisesa? Đã thấy (vị này) đang phạm thullaccaya, pācittiya, pāidesanīya, dukkaa, dubbhāsita? Và đại đức đã ở đâu? Và vị tỳ khưu này đã ở đâu? Và đại đức đã làm gì? Và vị tỳ khưu này đã làm gì?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do đã được thấy, tuy nhiên tôi đình chỉ lễ Pavāraā do đã được nghe.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do đã được nghe, đại đức đã nghe gì? Đại đức đã nghe thế nào? Đại đức đã nghe khi nào? Đại đức đã nghe ở đâu? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm pārājika’? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm saghādisesa’? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm thullaccaya, pācittiya, pāidesanīya, dukkaa, dubbhāsita’? Có phải đại đức đã nghe từ vị tỳ khưu? Đã nghe từ vị tỳ khưu ni? Đã nghe từ cô ni tu tập sự? Đã nghe từ vị sa di? Đã nghe từ vị sa di ni? Đã nghe từ nam cư sĩ? Đã nghe từ nữ cư sĩ? Đã nghe từ các đức vua? Đã nghe từ các quan đại thần của đức vua? Đã nghe từ các ngoại đạo? Đã nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do đã được nghe, tuy nhiên tôi đình chỉ lễ Pavāraā do sự nghi ngờ.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, đại đức nghi ngờ gì? Đại đức nghi ngờ như thế nào? Đại đức nghi ngờ khi nào? Đại đức nghi ngờ ở đâu? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm pārājika’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm saghādisesa’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm thullaccaya, pācittiya, pāidesanīya, dukkaa, dubbhāsita’? Có phải đại đức nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu ni? Nghi ngờ sau khi nghe từ cô ni tu tập sự? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di ni? Nghi ngờ sau khi nghe từ nam cư sĩ? Nghi ngờ sau khi nghe từ nữ cư sĩ? Nghi ngờ sau khi nghe từ các đức vua? Nghi ngờ sau khi nghe từ các quan đại thần của đức vua? Nghi ngờ sau khi nghe từ các ngoại đạo? Nghi ngờ sau khi nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, tuy nhiên tôi cũng không biết do điều gì tôi đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu này.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội không làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là không có tội.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là có tội.”

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội pārājika không có căn cứ, sau khi khép (vị buộc tội) vào tội saghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội saghādisesa không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp[6] rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội thullaccaya, pācittiya, pāidesanīya, dukkaa, dubbhāsita không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội pārājika,” sau khi trục xuất rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội saghādisesa,” sau khi khép vào tội saghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội thullaccaya, pācittiya, pāidesanīya, dukkaa, dubbhāsita,” sau khi cho hành xử (vị ấy) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

[248] Các trường hợp sám hối tội trong ngày lễ Pavāraā

 [248] Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya (trọng tội). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saghādisesa (tăng tàng). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya (trọng tội). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya (ưng đối trị), ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāidesanīya (ưng phát lộ). ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita (ác khẩu). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm pācittiya (ưng đối trị), đã phạm tội pāidesanīya (ưng phát lộ), đã phạm tội dukkaa (tác ác), đã phạm tội dubbhāsita (ác khẩu). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita (ác khẩu), này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tội dubbhāsita (ác khẩu). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya (ưng đối trị). ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāidesanīya (ưng phát lộ). ...(như trên)... Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

[249] Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này được biết và nhân sự thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các vị trong sạch. Nếu sự việc này được biết và nhân vật thì không (biết). Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các sự hợp nhất. Nếu nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết). Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này và nhân vật được biết. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc và nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu sự việc và nhân vật được biết. Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”

Này các tỳ khưu, nếu sự việc được biết trước ngày lễ Pavāraā, còn nhân vật (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraā, còn sự việc (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu sự việc và nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraā và khi lễ Pavāraā đã được thực hiện, nếu khơi lại việc ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) về việc bươi móc.

[250] Câu chuyện về các vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ...

 [250] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng):

- Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraā.

Các vị tỳ khưu ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói ở khu vực lân cận của chúng ta, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): ‘Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraā,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraā.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện hai hay ba lễ Uposatha vào ngày mười bốn (nghĩ rằng): “Làm thế nào chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraā sớm hơn các vị tỳ khưu ấy?”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đi đến chỗ trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên tụ hội lại thật nhanh chóng và tiến hành lễ Pavāraā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraā, các đại đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đi đến trú xứ ấy không báo trước, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên sắp đặt chỗ ngồi, nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đi ra đón, nên rước y và bình bát, và nên dâng nước uống. Sau khi xem chừng các vị ấy rồi nên đi ra khỏi ranh giới và nên tiến hành lễ Pavāraā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraā, các đại đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”

Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, chúng ta nên tiến hành lễ Pavāraā vào kỳ tới.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không phải là những người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraā của chúng tôi chúng tôi sẽ không thỉnh cầu.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng cư ngụ cho đến thời gian ấy, các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, chúng ta nên tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tới.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không phải là những người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraā của chúng tôi chúng tôi sẽ không thỉnh cầu.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng cư ngụ cho đến ngày trăng tròn ấy, này các tỳ khưu, tất cả các vị tỳ khưu nên tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī cho dầu không muốn.

Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraā, vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ đến khi đại đức hết bệnh. Khi hết bệnh thì đại đức sẽ buộc tội nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.[7]

Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraā, vị không bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, vị tỳ khưu này bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ cho đến khi vị tỳ khưu này hết bệnh. Rồi đại đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.

 Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraā, vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Các đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ đến khi (các đại đức) hết bệnh. Rồi vị không bệnh sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.

Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraā, vị không bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên thỉnh cầu.

[251] Sự đồng thuận về lễ Pavāraā (Pavāranāsagaha)

 [251] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā (Pavāraāsagaha). Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy:

Toàn bộ tất cả (các vị ấy) nên tụ hội lại một chỗ. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và nên tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Hội chúng thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đại đức nào đồng ý việc thực hiện thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự đồng thuận về lễ Pavāraā đã được hội chúng thực hiện, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, khi sự đồng thuận về lễ Pavāraā đã được hội chúng thực hiện, có vị tỳ khưu nọ nói như vầy: “Này các đại đức, tôi muốn ra đi du hành ở trong xứ sở. Tôi có công việc cần làm ở trong xứ sở.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, tốt lắm! Hãy thực hiện sự thỉnh cầu rồi hãy đi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi đang thỉnh cầu vị tỳ khưu ấy đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu khác. Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không phải là người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraā của tôi, tôi sẽ không thỉnh cầu.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy trong khi đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu khác đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu ấy. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, rồi cho hành xử theo Pháp.

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy sau khi hoàn tất công việc cần làm ở trong xứ sở trở về lại trú xứ ấy trước ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu nọ đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu ấy. Vị nọ nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không phải là người ra lệnh cho tôi. Tôi đã thỉnh cầu trong ngày lễ Pavāraā rồi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, vị tỳ khưu ấy đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraā) của vị tỳ khưu khác. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên thỉnh cầu.

Hết chương 4 Lễ Pavāraā

Trong chương này có 46 sự việc.

[252] Bài kệ tóm lược

 Đã sống qua mùa mưa

trong xứ Kosala

đi diện kiến Đạo Sư

sống chung như loài thú

không chút nào thoải mái,

thích hợp đối với nhau.

Trong khi đang cầu thỉnh

(ngồi yên) trên chỗ ngồi,

và có hai (ngày lễ),

hành sự, người bị bệnh,

thân quyến, rồi đức vua,

bọn cướp, lũ bất lương,

các kẻ nghịch tỳ khưu,

cũng giống y như thế.

Năm, bốn, ba, hai, một,

phạm tội, có nghi ngờ,

và vị đã nhớ lại.

Cả hội chúng nghi ngờ,

nhiều hơn, bằng, hoặc kém,

thường trú, ngày mười bốn,

dấu hiệu, đồng cộng trú,

cả hai, nên đi đến,

hạng người ngồi không thỉnh,

khi bày tỏ tùy thuận

lễ Pavāraā.

Bởi bọn người hung tợn,

đêm hết, đám mây đen,

và các điều chướng ngại

trong những sự thỉnh cầu.

Không làm, trước chúng ta,

đã không bị đình chỉ,

và của vị tỳ khưu.

Điều gì? Và thế nào?

bởi thấy, nghe, nghi ngờ,

vị (nguyên cáo) kết tội,

và vị bị kết tội,

câu chuyện về trọng tội,

và vấn đề xung đột,

ngày thỉnh cầu đồng thuận

không phải người ra lệnh,

vị có thể thỉnh cầu.

[1] Pavāraā: nghĩa là “sự thỉnh cầu” đồng thời là tên của buổi lễ dành cho các tỳ khưu đã hoàn tất mùa (an cư) mưa thời điểm trước (Lễ này đã được dịch là Tự Tứ, chúng tôi mạn phép giữ nguyên từ Pāli). Pavāreti là động từ. Với động từ này, chúng tôi sẽ dịch theo hai lối là “thỉnh cầu” hoặc “tiến hành lễ Pavāraā” tùy theo ngữ cảnh.

[2] Ở CD của trường đại học Mahidol không có câu này. Được thêm vào từ CD Chaṭṭhasagāyana.

[3] Ba trường hợp này liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 69.

[4] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaga [436]). Từ “avut,t,hitāya" còn có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.” Việc này tương tợ như ở chương Lễ Uposatha [202].

[5] Với từ “Pavāraā,” chúng tôi dịch là “Sự thỉnh cầu” hoặc “Lễ Pavāraā.” Trường hợp nào quý vị thấy ý nghĩa không được rõ ràng thì dùng từ còn lại thay thế vào. Áp dụng tương tợ với động từ “Pavāreti” như đã giải thích ở trên.

[6] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 76.

[7] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 54.

Hết Chương 4Quay Về Mục Lục Chương 4

Xem Chương 5 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments