Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 2. Lễ Uposatha (UposathakkhandhakaṂ)
2. Tụng phẩm thứ nhì
Mục Lục
[175] Giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lão
[177] Việc tính toán (ngày) của nửa tháng, đếm số tỳ khưu
[178] Việc thông báo lễ Uposatha
[179] Các phận sự trước lễ Uposatha
[181] Giảng giải về việc chuyển đạt sự trong sạch của vị bệnh
[182] Giảng giải về việc chuyển đạt sự tùy thuận của vị bệnh
[183] Gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng khi hành lễ Uposatha
[184] Câu chuyện về tỳ khưu Gagga. Sự đồng ý về bệnh điên
[185] Sự thực hiện lễ Uposatha bởi bốn, ba, hai, một vị
[186] Giảng giải về sự sám hối
Nội Dung
[175] Giới bổn Pātimokkha là
trách nhiệm của vị trưởng lão
[175] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến Codanāvatthu. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Codanāvatthu.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu cư ngụ. Ở đó,
vị tỳ khưu trưởng lão là ngu dốt thiếu kinh nghiệm. Vị ấy không biết lễ
Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc
tụng giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế
Tôn đã quy định rằng: ‘Giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lão,’
và vị trưởng lão này của chúng ta thì ngu dốt thiếu kinh nghiệm không biết lễ
Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc
tụng giới bổn Pātimokkha, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ở nơi đó vị tỳ khưu nào có kinh
nghiệm, đủ năng lực thì giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị ấy.
[176] Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ có nhiều
vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha,
hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới
bổn Pātimokkha. Các vị ấy đã thỉnh mời vị trưởng lão rằng:
- Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi không làm được.
Các vị đã thỉnh mời vị trưởng lão thứ nhì:
- Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi không làm được.
Các vị đã thỉnh mời vị trưởng lão thứ ba:
- Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Này các đại đức, tôi không làm được.
Bằng chính phương thức ấy, các vị đã thỉnh mời đến vị mới tu của
hội chúng:
- Xin đại đức hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
- Thưa các ngài, tôi không làm được.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ
có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ
Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc
tụng giới bổn Pātimokkha. Các vị ấy thỉnh mời vị trưởng lão rằng: “Thưa ngài,
xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại
đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời vị trưởng lão thứ nhì: “Thưa ngài,
xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Này
các đại đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời vị trưởng lão thứ ba: “Thưa
ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy:
“Này các đại đức, tôi không làm được.” Bằng chính phương thức ấy, các vị thỉnh
mời đến vị mới tu của hội chúng: “Xin đại đức hãy đọc tụng giới bổn
Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Thưa các ngài, tôi không làm được.” Này
các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến
trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn
Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Người nào nên được
phái đi?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho
vị tỳ khưu mới tu.
Dầu được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn
không đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh
không nên không đi; vị nào không đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[177] Việc tính toán (ngày) của
nửa tháng, đếm số tỳ khưu
[177] Sau đó, khi đã ngự tại Codanāvatthu theo như ý thích đức Thế Tôn đã quay trở vể lại thành Rājagaha.
Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng:
- Thưa ngài, là ngày thứ mấy của nửa tháng?
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không biết đến việc tính toán (ngày) của
nửa tháng thì những người này còn biết được điều tốt đẹp gì khác nữa đây?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép học cách tính toán (ngày) của nửa
tháng.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vị nào nên học cách
tính toán (ngày) của nửa tháng?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả đều học cách tính
toán (ngày) của nửa tháng.
Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng:
- Thưa ngài, có đến bao nhiêu vị tỳ khưu?
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không biết lẫn nhau thì những người này
còn biết được điều tốt đẹp gì khác nữa đây?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đếm số các vị tỳ khưu.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Khi nào thì nên đếm số
các vị tỳ khưu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đếm số vào ngày lễ Uposatha bằng
cách gọi tên hoặc rút thẻ.
[178] Việc thông báo lễ
Uposatha
[178] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không biết: “Hôm nay là ngày lễ Uposatha” nên đi khất thực ở làng xa. Các vị ấy trở lại trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, các vị trở lại khi giới bổn Pātimokkha vừa mới đọc tụng xong. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo: “Hôm nay là ngày lễ
Uposatha.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Nên được thông báo bởi
vị nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão thông báo
vào sáng sớm.
Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lão nọ vào sáng sớm đã không nhớ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo vào lúc thọ thực.
Ngay cả khi thọ thực, vị ấy đã không nhớ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép lúc nào nhớ thì thông báo vào lúc ấy.
[179] Các phận sự trước lễ
Uposatha
[179] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ nhà hành lễ Uposatha bị dơ bẩn. Các tỳ khưu vãng lai phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu lại không quét nhà hành lễ Uposatha?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép quét nhà hành lễ Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên quét nhà hành
lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho
vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không
quét. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh
không nên không quét; vị nào không quét thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, chỗ ngồi không được sắp đặt trong nhà hành lễ
Uposatha. Các tỳ khưu ngồi trên nền nhà. Các phần thân thể và các y bị dơ bẩn.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sắp đặt chỗ ngồi trong nhà hành lễ
Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên sắp đặt chỗ ngồi
trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho
vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không sắp
đặt chỗ ngồi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh
không nên không sắp đặt; vị nào không sắp đặt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong nhà hành lễ Uposatha không có đèn. Trong
bóng tối, các vị tỳ khưu đạp nhầm cơ thể và y. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thắp sáng đèn trong nhà hành lễ
Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên thắp sáng đèn
trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho
vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không
thắp sáng đèn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh
không nên không thắp sáng đèn; vị nào không thắp sáng đèn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ các tỳ khưu thường trú không cung ứng
nước uống, không cung ứng nước rửa. Các tỳ khưu vãng lai phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu thường trú lại không cung ứng nước uống,
không cung ứng nước rửa?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cung ứng nước uống, nước rửa.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên cung ứng nước
uống, nước rửa?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho
vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không
cung ứng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh
không nên không cung ứng; vị nào không cung ứng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[180] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh
nghiệm lên đường đi xa đã không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu
kinh nghiệm lên đường đi xa không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học.
Này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học nên hỏi các vị ấy rằng: “Các
ngươi sẽ đi đâu? Các ngươi sẽ đi với ai?” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu
ngu dốt, thiếu kinh nghiệm ấy nêu lên các vị ngu dốt, thiếu kinh nghiệm khác,
này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học không nên cho phép; nếu các
vị cho phép thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu
kinh nghiệm ấy khi không được các vị thầy tế độ và thầy dạy học cho phép mà vẫn
đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh
nghiệm sống tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự
Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn
Pātimokkha. Nơi ấy có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được
truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc
trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nọ nên được các vị tỳ khưu ấy tiếp đón nồng hậu,
nên được quan tâm, nên được chăm sóc, nên được cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm),
gỗ chà răng, nước rửa mặt. Nếu các vị không tiếp đón nồng hậu, quan tâm, chăm
sóc, cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm), gỗ chà răng, nước rửa mặt thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh
nghiệm sống tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha. Các vị ấy không biết lễ
Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc
tụng giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy
nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi
và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.”
Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu
không đạt được (như thế) thì nơi nào có các vị biết về lễ Uposatha, hoặc là
hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn
Pātimokkha, toàn bộ tất cả các vị tỳ khưu ấy nên đi đến trú xứ ấy, nếu các vị
không đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh
nghiệm cư trú mùa mưa tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là
hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn
Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị
tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc
lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.” Nếu việc ấy
đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được
(như thế) thì nên phái đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng):
“Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc
đầy đủ rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp.
Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì các tỳ khưu ấy không nên cư
trú mùa mưa tại trú xứ ấy. Nếu các vị ấy cư trú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[181] Giảng giải về việc chuyển
đạt sự trong sạch của vị bệnh
[181] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ
Uposatha.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được bày tỏ sự
trong sạch. Và này các tỳ khưu, nên bày tỏ như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên
đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp
tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin bày tỏ sự trong sạch. Hãy chuyển đạt sự
trong sạch của tôi. Hãy thông báo về sự trong sạch của tôi.”
(Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng
thân và lời nói, thì sự trong sạch đã được bày tỏ. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng
thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự
trong sạch đã không được bày tỏ. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy
là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường
hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện lễ Uposatha.
Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta
di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử
vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội chúng
nên đi đến và thực hiện lễ Uposatha ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ
Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển
đạt sự trong sạch từ chính chỗ ấy bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch nên được
bày tỏ đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị
chuyển đạt sự trong sạch ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống
lại) sa di, được biết là người đã từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực
nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ
hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết
là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong
việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng
mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú,
được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết
A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội
chúng, được biết là kẻ làm chảy máu đức Phật, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự
trong sạch nên được bày tỏ đến vị khác.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển
đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch vẫn
chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị
chuyển đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, ...(như
trên)..., được biết là kẻ lưỡng căn thì sự trong sạch vẫn chưa được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển
đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch
đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị
chuyển đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, ...(như
trên)..., được biết là kẻ lưỡng căn thì sự trong sạch đã được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển
đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi
lơ đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo thì sự trong sạch
đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự trong sạch không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển
đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì sự trong sạch
đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt sự trong sạch bị phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[182] Giảng giải về việc chuyển
đạt sự tùy thuận của vị bệnh
[182] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện hành sự.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra sự
tùy thuận. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên
đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp
tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra sự tùy thuận. Hãy chuyển đạt sự
tùy thuận của tôi. Hãy thông báo về sự tùy thuận của tôi.”
(Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng
thân và lời nói, thì sự tùy thuận đã được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng
thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự
tùy thuận đã không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy
là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường
hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện hành
sự. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu
chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ
gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội
chúng nên đi đến và thực hiện hành sự ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện hành
sự bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận từ chính chỗ ấy bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận nên được
trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị
chuyển đạt sự tùy thuận ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống
lại) sa di, được biết là người đã từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực
nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ
hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết
là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm
tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, được biết là
loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết
A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội
chúng, được biết là kẻ làm chảy máu đức Phật, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự
tùy thuận nên được trao ra đến vị khác.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận vẫn
chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị
chuyển đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, ...(như
trên)..., được biết là kẻ lưỡng căn thì sự tùy thuận vẫn chưa được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận đã
được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, ...(như trên)...,
được biết là kẻ lưỡng căn thì sự tùy thuận đã được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi lơ
đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo thì sự tùy thuận đã
được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự tùy thuận không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển
đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì sự tùy thuận
đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt sự tùy thuận bị phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Uposatha vị bày tỏ sự
trong sạch (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (phòng khi) hội chúng có hành sự cần
được thực hiện.
[183] Gìn giữ sự hợp nhất của
hội chúng khi hành lễ Uposatha
[183] Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày lễ Uposatha các thân quyến đã cầm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các thân quyến
cầm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy:
“Này các ngài,[9] các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến
khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế,
việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên
được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên
trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ sự trong sạch xong.” Nếu việc ấy
đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các
thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn
vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện
lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu
không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng
theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các đức vua cầm
giữ vị tỳ khưu lại. ...(như trên)... Các kẻ trộm cướp cầm giữ ...(như trên)...
Những kẻ bất lương cầm giữ ...(như trên)... Những kẻ đối nghịch tỳ khưu cầm giữ
vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy:
“Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi
nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế,
việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ
khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh
sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ sự trong sạch
xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể
đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như
vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc
lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như
thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không
nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm
tội dukkaṭa (tác
ác).
[184] Câu chuyện về tỳ khưu
Gagga. Sự đồng ý về bệnh điên
[184] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng có việc cần phải
làm.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, có vị tỳ khưu tên Gagga bị điên. Vị ấy không đến.
- Này các tỳ khưu, đây là hai trường hợp bị điên. Có vị tỳ khưu
điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội
chúng có khi không nhớ; và có vị hoàn toàn không nhớ. (Có vị) có khi đi đến lễ
Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không
đi đến; và có vị không bao giờ đi đến. Này các tỳ khưu, trường hợp vị bị điên
nào có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội
chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi
đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến; này các tỳ khưu, ta cho phép
ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến vị bị điên có hình thức như thế. Và này các
tỳ khưu, nên ban cho như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga
này bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự
của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến,
có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Nếu là thời điểm thích
hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến tỳ khưu
Gagga là vị bị điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể
không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể
đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội
chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga vẫn
nên thực hiện lễ Uposatha, vẫn nên thực hiện hành sự của hội chúng. Đây là lời
đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này
bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của
hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có
khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Hội chúng ban cho sự đồng
ý về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến
lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có
thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến
hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay
không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Đại
đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị
điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể
nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha
hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không
đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ
thực hiện hành sự của hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói
lên.
Sự đồng ý về bệnh điên đã được hội chúng ban đến tỳ khưu Gagga là
vị bị điên.Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ,
có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ
Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có
thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ
Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên
mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[185] Sự thực hiện lễ Uposatha
bởi bốn, ba, hai, một vị
[185] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Nên tiến hành lễ Uposatha’ và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với
bốn vị.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có ba vị tỳ
khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho
phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy
chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha (bằng cách
bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện
như vầy:
Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Uposatha
vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thực
hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau.”
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm,
chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’
Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’
Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp
tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’
Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’
Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi:
‘Là vị trong sạch.’”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có hai vị tỳ
khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho
phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ
Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị và chúng ta là
hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha (bằng cách
bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện
như vầy:
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm,
chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy:
“Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’
Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’
Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp
tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lão như vầy:
“Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’
Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’
Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị
trong sạch.’”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có một vị tỳ
khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép
đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha
(bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị, (cho phép) thực hiện lễ
Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với hai vị và ta chỉ có
một mình, vậy ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha
có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay
trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét
khu vực ấy, nên đem lại nước uống, nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp
sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến thì nên thực hiện
lễ Uposatha với các vị ấy; nếu không có ai đi đến thì nên chú nguyện rằng: “Hôm
nay là lễ Uposatha của tôi;” nếu không chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không
nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi đọc tụng giới bổn Pātimokkha bởi ba
vị; nếu các vị đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không
nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi thực hiện lễ Uposatha (bằng cách
bày tỏ) sự trong sạch bởi hai vị; nếu các vị thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không
nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi chú nguyện bởi một vị; nếu chú nguyện
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[186] Giảng giải về sự sám hối
[186] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và ta thì bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ
Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp
thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội
ấy.
Vị kia nên nói rằng:
- (Đại đức) có thấy (tội ấy) không?
- Thưa có, tôi thấy.
- (Đại đức) hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội
vào ngày lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ
khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên
nói như vầy:
- Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy),
khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.
Nói xong thì lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn
Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
[187] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư sám hối tội (đã
phạm) giống nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau; vị
nào sám hối thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư ghi nhận tội (đã phạm)
giống nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau; vị
nào ghi nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[188] Vào lúc bấy giờ, trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc
tụng có vị tỳ khưu nọ nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức
Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và
ta thì bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu nhớ ra tội trong lúc giới
bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị
tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), sau khi
đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được
tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại
cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội
trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy
nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự
phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa
chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới
bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên
nhân ấy.
[189] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ
hội chúng đã phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này:
“Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau,
không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đã phạm tội
giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha
toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy
các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng):
“Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa
chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế,
việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì hội
chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các
ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống
nhau, khi nào (hội chúng) nhìn thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội
khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong,
thì lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng,
nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha
toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được
thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống
nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội
ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được
đọc tụng, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ khi đã vào mùa an cư
mưa, hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên
phái một vị tỳ khưu ngay trong hôm ấy đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại
đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại
tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy
như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên phái
đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và
sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong
sự hiện diện của đại đức.”
[190] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đã phạm tội
giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị tỳ khưu
khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành
rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh,
khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp vị
tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Thưa đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội
tên gì?
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội
tên nầy. Này đại đức, ngươi đã phạm tội tên nầy, ngươi hãy sửa chữa tội ấy.
Vị nọ đã nói như vầy:
- Thưa đại đức, không phải chỉ mình tôi đã phạm tội ấy. Toàn bộ hội
chúng này đã phạm tội ấy.
Vị ấy đã nói như vầy:
- Này đại đức, người khác phạm tội hay không phạm tội thì điều gì
sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hãy tự thoát khỏi tội cho chính bản
thân mình đi.
Khi ấy, vị tỳ khưu nọ sau khi đã sửa chữa tội ấy theo lời khuyên
của vị tỳ khưu ấy rồi đã đi đến gặp các vị tỳ khưu kia, sau khi đến đã nói với
các vị tỳ khưu kia điều này:
- Này các đại đức, nghe nói vị hành động như vầy và như vầy thì vị
ấy phạm tội tên nầy. Này các đại đức, các vị đã phạm tội tên nầy, các vị hãy sửa
chữa tội ấy.
Khi ấy, các vị tỳ khưu kia đã không muốn sửa chữa tội ấy theo lời
khuyên của vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đã
phạm tội giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị
tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về
Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng,
thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đã
đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: “Thưa đại
đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên gì?” Vị ấy nói như
vầy: “Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy.
Này đại đức, ngươi đã phạm tội tên nầy, ngươi hãy sửa chữa tội ấy.” Vị nọ nói
như vầy: “Thưa đại đức, không phải chỉ mình tôi đã phạm tội ấy. Toàn bộ hội
chúng này đã phạm tội ấy.” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, người khác phạm tội
hay không phạm tội thì điều gì sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hãy tự
thoát khỏi tội cho chính bản thân mình đi.” Này các tỳ khưu, nếu sau khi sửa chữa
tội theo lời khuyên của vị tỳ khưu ấy, vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp các vị tỳ
khưu kia, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu kia như vầy: “Này các đại đức,
nghe nói vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy. Này các đại
đức, các vị đã phạm tội tên nầy, các vị hãy sửa chữa tội ấy.” Này các tỳ khưu,
nếu các vị tỳ khưu kia sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu nọ, việc ấy
như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu các vị không chịu sửa chữa, vị tỳ khưu
nọ không nên khuyên các vị tỳ khưu ấy (vì họ) không có mong muốn.
Hết tụng phẩm “Codanāvatthu”
Xem Tụng Phẩm 3 - Xem Chương 3 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments