Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 2. Lễ Uposatha - Tụng Phẩm 3

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 2. Lễ Uposatha (Uposathakkhandhaka)

3. Tụng phẩm thứ ba

Mục Lục

[191] Mười lăm trường hợp đọc tụng giới bổn được vô tội

[192] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

[193] Mười lăm trường hợp nghi ngờ

[194] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại

[195] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ

[197] Lễ Uposatha liên quan đến các vị thường trú và vãng lai

[199] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Uposatha

[201] Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha khi có tỳ khưu ni, v.v...

[204] Bài kệ tóm lược

Nội Dung

[191] Mười lăm trường hợp đọc tụng giới bổn được vô tội

 [191] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú đã tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi đã thực hiện lễ Uposatha và đã đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.

Hết 15 trường hợp vô tội

[192] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

 [192] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất

[193] Mười lăm trường hợp nghi ngờ

[193] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp nghi ngờ 

[194] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại

 [194] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaa (tác ác).

Hết 15 trường hợp có sự ngần ngại

[195] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ

 [195] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ...(như trên)... trong khi hội chúng còn chưa đứng lên ...(như trên)... một số thuộc hội chúng đã đứng lên ...(như trên)... toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. ...(như trên)... (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Hết 15 trường hợp có dự tính chia rẽ

Hết 75 trường hợp

[196] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, ...(như trên)... Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới, ...(như trên)... Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” ...(như trên)... Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba của vị thường trú với vị thường trú, của vị vãng lai với vị thường trú, của vị thường trú với vị vãng lai, của vị vãng lai với vị vãng lai, theo cách thức thêm vào những phần tương tợ thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.

[197] Lễ Uposatha liên quan đến các vị thường trú và vãng lai

 [197] Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu (có số lượng) bằng nhau và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành.

[198] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, tọa cụ khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

[199] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Uposatha

 [199] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc nhóm cộng trú khác (nānāsavāsaka). Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú (samānasasāsaka), sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. ...(như trên)... Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.

[200] Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ... chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

[201] Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha khi có tỳ khưu ni...

 [201] Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự ... có vị sa di ... có vị sa di ni ... có người đã từ bỏ điều học ... có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp. Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ... đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp.[10]

Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaa (tác ác). Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ... có kẻ đã chuyển sang ngoại đạo ... có loài thú ... có kẻ giết mẹ ... có kẻ giết cha ... có kẻ giết A-la-hán ... có kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni ... có kẻ chia rẽ hội chúng ... có kẻ làm chảy máu đức Phật ... có kẻ lưỡng căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaa (tác ác).

[202] Này các tỳ khưu, lễ Uposatha không nên tiến hành với việc bày tỏ sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly (avuṭṭhitāya parisāya).[11]

[203] Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha không nhằm ngày Uposatha trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.

Hết Chương Uposatha

Hết Tụng phẩm 3

Trong chương này có tám mươi sáu sự việc.

Tóm lược chương này:

[204] Bài kệ tóm lược

 [204]

Vua Bimbisāra

và những người ngoại đạo,

tụ hội lại lặng thinh

giảng Pháp, nơi thanh vắng

giới Pātimokkha

hàng ngày, rồi một lần.

Như là sự hợp nhất,

sự hợp nhất hội chúng

chuyện Maddakucchi.

Ranh giới lớn, giòng sông,

tùy thuận, ở hai nơi,

và các chỗ nhỏ hẹp.

Các vị mới tu lên,

và chuyện thành Vương Xá,

ranh giới lìa xa y,

trước ấn định ranh giới

sau hủy bỏ ranh giới,

ranh làng không ấn định,

việc ném ra bụm nước

ở sông, biển, ao hồ.

Các vị làm gối lên,

cũng như vậy bao trùm.

Bao nhiêu cách hành sự?

Bao nhiêu lối đọc tụng?

Những bọn người lục lâm,

và những lúc không có,

Pháp, Luật, họ hăm dọa,

lại hăm dọa vì Luật,

kết tội xin thỉnh ý,

phản đối việc sai Pháp,

là có bốn năm vị,

quan điểm, có ý định,

và (một thì) khẳng định,

có cư sĩ, chưa thỉnh.

Ở vùng Codanā

vị ấy không biết được,

nhiều vị cũng không biết,

trong ngày, không chịu đi.

Thứ mấy? Có bao nhiêu?

(Khất thực) ở vùng xa,

vị không nhớ thông báo,

rác rưởi, chỗ ngồi, đèn,

các vị đi phương xa,

có vị khác nghe nhiều,

ngay hôm ấy, mùa mưa,

lễ Uposatha,

trong sạch và hành sự,

các thân quyến, Gagga,

bốn, ba, hai, hoặc một,

tội đồng phạm, nhớ ra,

cả hội chúng nghi ngờ,

không biết, vị nghe nhiều.

Nhiều hơn, bằng, ít hơn,

hội chúng chưa đứng lên,

một số đã đứng lên,

tất cả đã đứng lên.

Các vị biết, nghi ngờ,

“Được phép,” rồi hối hận,

đã biết, nhìn, và nghe,

thường trú và vãng lai,

lại mười bốn, mười lăm,

đầu tháng, và mười lăm,

cả hai về hiện tướng

và việc đồng cộng trú.

Vị parivāsa,

ngày Uposatha

không kể đến trường hợp

hội chúng hợp nhất lại.

Những điều tóm tắt này

chia chẻ là đầu mối

làm rõ các vấn đề.

[1] Ngài Buddhaghosa giải thích “mūgasūkarā” là “thūlasarīrasūkarā” (những con heo có thân hình to lớn, thô kệch).

[2] Theo từ điển Pali-English Dictionary của hội Pali Text Society thì 1 yojana có chiều dài khoảng 7 miles, từ điển của Childers thì 12 miles, còn tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết là 10 miles tức vào khoảng 16 km.

[3] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, từ chỗ ngài Mahākassapa trú ngụ đến thành Rājagaha là 3 gāvuta (1 gāvuta = 1/4 yojana), như vậy vào khoảng 12 km (tính theo tài liệu The Buddhist Monastic Code). Trong thành Rājagaha có 18 trú xá lớn (mahāvihāra) nhưng có cùng chung một ranh giới do đức Thế Tôn kết. Và Veuvana (Trúc Lâm) là chỗ các vị tỳ khưu ở trong ranh giới ấy tụ hội để thực hiện lễ Uposatha. Con sông được đề cập tên là Sippinī phát xuất từ núi Gijjhakūa (Linh Thứu) và có giòng chảy rất mạnh.

[4] Các bản dịch tiếng Anh dịch sát theo từ khiến ý nghĩa bị lầm lẫn: “Ranh giới ấy là nơi vị tỳ khưu không xa lìa ba y.” Họ đã dịch đúng theo từ: (từ phủ định) a+vippavāso (sự xa cách, sự vắng mặt) = sự không xa lìa. Các vị tỳ khưu thường nói theo thói quen là “sīmā xa lìa tam y” cũng không được chính xác vì tiếp đầu ngữ “a” nghĩa là không và “vippavāsa” là sự xa lìa, sự vắng mặt. Muốn giải thích trường hợp này phải trở lại giới ưng xả đối trị thứ 2: “... ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyya...” và xem “vippavāsa” có ý nghĩa một cách tổng quát là “Sự phạm tội vì xa lìa ba y.” Và “a+vippavāsa” là “Không có+ sự phạm tội vì xa lìa ba y” ở trong ranh giới ấy. Điều này và việc “được phép xa lìa ba y” có sự khác biệt rất rõ rệt.

[5] Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (cánh tay). Từ Điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho khoảng cách của 7 abbhantara = 98 mét (1 abbhantara = 14 mét).

[6] Theo ngài Buddhaghosa, khoảng cách là một cánh tay (hattha).

[7] Pāli văn là: “Karotu āyasmā okāsa ahanta vattukāmo.”

[8] Tam Tạng Thái Lan của CD Budsir IV trình bày phần nước uống và nước rửa ở phần cước chú.

[9] Lối xưng hô tỏ vẻ kính trọng “āyasmanto” được các vị tỳ khưu sử dụng trong trường hợp này.

[10] Ba trường hợp này liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 69.

[11] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaga [436]). Từ “avut,t,hitāya" còn có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.”

Hết Chương 2 Xem Chương 3 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments