Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 12. Chương Liên Quan Bảy Trăm Vị - Tụng phẩm thứ nhất

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

12. Chương Liên Quan Bảy Trăm Vị (Sattasatikkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ nhất

Mục Lục

[630] Câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji: Việc truyền bá mười sự việc

[631] Câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji và trưởng lão Yasa

[634] Bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Bốn điều làm ô nhiễm đối với sa-môn và bà-la-môn

[637] Câu chuyện thôn trưởng Maicūaka

[638] Câu chuyện Upananda dòng dõi Sākya

[639] Trở lại câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji và trưởng lão Yasa

[640] Câu chuyện về trưởng lão Sambhūta Sāavāsī. Câu chuyện về các tỳ khưu ở Pāvā

[641] Câu chuyện về trưởng lão Revata

[642] Sự hỏi và trả lời mười sự việc

 Nội Dung

[630] Vào lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn được một trăm năm, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī truyền bá trong thành Vesālī mười sự việc: Được phép cất giữ muối trong ống sừng (kappati siṅgiloṇakappo), được phép ăn khi bóng mặt trời đã hai ngón tay (kappati dvaṅgulakappo), được phép đi vào làng rồi ăn thêm lần nữa (kappati gāmantarakappo), được phép hành lễ Uposatha riêng rẽ (kappati āvāsakappo), được phép hành sự không đủ tỳ khưu (kappati anumatikappo), được phép thực hành theo tập quán (kappati āciṇṇakappo), được phép uống sữa chua lúc quá ngọ (kappati amathitakappo), được phép uống nước trái cây lên men (kappati jaḷogiṃ pātuṃ), được phép sử dụng tọa cụ không có viền quanh (kappati adasakaṃ nisīdanaṃ), được phép tích trữ vàng bạc (kappati jātarūparajataṃ). [1]

[631] Vào lúc bấy giờ, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka trong khi du hành ở xứ Vajji đã đến trú tại Vesālī. Tại nơi đó ở Vesālī, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã trú tại Mahāvana (Đại Lâm) nơi giảng đường Kūṭāgāra.

[632] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī vào ngày Uposatha (Bố Tát) đổ đầy nước vào cái chậu đồng rồi đặt ở giữa hội chúng tỳ khưu và nói với các cư sĩ ở Vesālī đang đi qua lại như vầy:

- Này các đạo hữu, hãy bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa, một pāda, một đồng māsaka. Hội chúng sẽ có việc phải làm về vật dụng.

Khi được nói như vậy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với các cư sĩ ở Vesālī điều này:

- Này các đạo hữu, chớ có bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa, một pāda, một đồng māsaka. Vàng bạc không được cho phép đối với các sa-môn Thích tử; các sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các sa-môn Thích tử không thọ lãnh vàng bạc; các sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu vàng ròng và tránh xa vàng bạc.

Mặc dù được đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka nói như vậy, các cư sĩ ở Vesālī vẫn bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa, một pāda, một đồng māsaka.

Sau đó, vào cuối đêm ấy các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī đã xác định phần chia tùy theo số lượng tỳ khưu rồi phân chia của cải ấy. Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này:

- Này đại đức Yasa, phần chia của cải này thuộc về đại đức.

- Này các đại đức, phần chia của cải này không thuộc về tôi, tôi không thích thú của cải.

[633] Sau đó, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka này quở trách, chê bai, làm hoại đức tin các cư sĩ có niềm tin đã được an trú, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự hòa giải đến vị ấy.” Họ đã thực thi hành sự hòa giải đến vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī điều này:

- Này các đại đức, đức Thế Tôn đã quy định rằng: “Vị sứ giả cùng đi nên được ban đến vị tỳ khưu thực thi hành sự hòa giải.” Này các đại đức, hãy cho tôi vị tỳ khưu làm sứ giả cùng đi.

Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī đã chỉ định một vị tỳ khưu và cho làm sứ giả cùng đi với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka. Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka cùng với vị tỳ khưu là sứ giả cùng đi đã vào thành Vesālī và đã nói với các cư sĩ ở Vesālī điều này:

- Nghe nói tôi quở trách, chê bai, làm hoại đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin đã được an trú là việc tôi nói sai Pháp là: “Sai Pháp,” đúng Pháp là: “Đúng Pháp,” sai Luật  là: “Sai Luật,” đúng Luật là: “Đúng Luật.”

[634] Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Này các đạo hữu, ở nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:

- “Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi. Bốn vật ấy là gì?

Này các tỳ khưu, mây là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, sương mù là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, khói bụi là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, Rāhu chúa loài Asura (hiện tượng nguyệt và nhật thực) là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, cũng tương tợ như vậy đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi. Bốn điều ấy là gì?

Này các tỳ khưu, có những sa-môn và Bà-la-môn uống rượu, uống men say, không chừa bỏ việc uống rượu và men say. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ nhất đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những sa-môn và Bà-la-môn thực hiện việc đôi lứa, không chừa bỏ việc đôi lứa. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ hai đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những sa-môn và Bà-la-môn thích thú vàng bạc, không chừa bỏ việc thọ lãnh vàng bạc. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ ba đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những sa-môn và Bà-la-môn chấp nhận cuộc sống bằng sự nuôi mạng không chân chánh, không chừa bỏ sự nuôi mạng không chân chánh. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ tư đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.

Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.”

Này các đạo hữu, đức Thế Tôn đã nói điều ấy, đấng Thiện Thệ đã nói điều ấy, rồi bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:

[635]

Có những vị sa-môn

và những Bà-la-môn

ô nhiễm do dục sân,

còn có những nam nhân

bị vô minh che áng

thoả thích điều khoái lạc,

uống rượu và men say,

thực hành điều dâm dục,

thích thú bạc và vàng,

là những kẻ khờ si.

Có những vị sa-môn

và những Bà-la-môn

sinh sống bằng tà mạng,

những điều ô nhiễm này

được nói lên bởi Phật

vị dòng dõi mặt trời.

Có những vị sa-môn

và những Bà-la-môn

đã bị làm ô nhiễm

bởi những ô nhiễm ấy,

không sáng, không rực rỡ,

không còn được thanh tịnh

bởi tham ái dục tình.

Chúng đã bị che lấp

bởi màn đêm bóng tối,

nô lệ của ái tình,

bám víu cuộc đời này,

chúng làm cho tăng trưởng

tử thần thật ghê sợ,

chết rồi chúng tái sanh.

[636] Có lời nói như vầy: “Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm hoại đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin đã được an trú là việc tôi nói sai Pháp là: “Sai Pháp,” đúng Pháp là: “Đúng Pháp,” sai Luật  là: “Sai Luật,” đúng Luật là: “Đúng Luật.”

[637] Này các đạo hữu, vào một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đã sanh khởi: “Vàng bạc được cho phép đối với các sa-môn Thích tử; các sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các sa-môn Thích tử thọ lãnh vàng bạc.”

Này các đạo hữu, vào lúc bấy giờ vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đang ngồi trong nhóm người ấy. Này các đạo hữu, khi ấy vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã nói với nhóm người ấy điều này: “Quý vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các sa-môn Thích tử; các sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các sa-môn Thích tử không thọ lãnh vàng bạc; các sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu vàng ròng và tránh xa vàng bạc.” Này các đạo hữu, vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã có thể thuyết phục được nhóm người ấy.

Này các đạo hữu, sau đó, vị thôn trưởng Maṇicūḷaka khi đã thuyết phục được nhóm người ấy rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Này các đạo hữu, khi đã ngồi xuống một bên vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, ở đây trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đã sanh khởi: “Vàng bạc được cho phép đối với các sa-môn Thích tử; các sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các sa-môn Thích tử thọ lãnh vàng bạc.” Bạch ngài, được nói như vậy, con đã nói với nhóm người ấy điều này: “Quý vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các sa-môn Thích tử; các sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các sa-môn Thích tử không thọ lãnh vàng bạc; các sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu vàng ròng và tránh xa vàng bạc.” Bạch ngài, con đã có thể thuyết phục được nhóm người ấy. Bạch ngài, trong khi nói như thế, có phải con là người đã nói đúng lời của đức Thế Tôn và con không vu khống đức Thế Tôn một cách sai trái? Có phải con đã nói theo lý lẽ của Giáo Pháp? Và có phải người nào có lời nói hợp với giáo lý, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế bị chê trách?

- Này Thôn trưởng, đúng vậy. Trong khi nói như thế, ngươi là người đã nói đúng lời của ta và ngươi không vu khống ta một cách sai trái. Ngươi đã nói theo lý lẽ của Giáo Pháp và người nào có lời nói hợp với giáo lý, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế đáng bị chê trách. Này Thôn trưởng, bởi vì vàng bạc không được cho phép đối với các sa-môn Thích tử, các sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc, các sa-môn Thích tử không thọ lãnh vàng bạc, các sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu vàng ròng và tránh xa vàng bạc. Này Thôn trưởng, kẻ nào chấp nhận vàng bạc cũng sẽ chấp nhận luôn năm phần dục lạc. Này Thôn trưởng, kẻ nào chấp nhận năm phần dục lạc, ngươi có thể biết chắc chắn điều này: “Đây không phải là pháp của sa-môn, đây không phải là pháp của Thích tử.” Này Thôn trưởng, và ta còn nói như vầy: “Người mong muốn cỏ thì tầm cầu cỏ, người mong muốn củi thì tầm cầu củi, người mong muốn xe cộ thì tầm cầu xe cộ, người mong muốn đàn ông thì tầm cầu đàn ông.” Này Thôn trưởng, nhưng ta không có nói rằng: “Bằng bất cứ phương tiện gì, vàng bạc nên được thích thú, nên được tầm cầu.”

Có lời nói như vầy: “Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm hoại đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin đã được an trú là việc tôi nói về sai Pháp là: “Sai Pháp,” đúng Pháp là: “Đúng Pháp,” sai Luật  là: “Sai Luật,” đúng Luật là: “Đúng Luật.”

[638] Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, ở ngay chính nơi ấy tại thành Rājagaha đức Thế Tôn đã từ chối vàng bạc và quy định điều học có liên quan đến đại đức Upananda dòng dõi Sākya.

Có lời nói như vầy: “Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm hoại đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin đã được an trú là việc tôi nói về sai Pháp là: “Sai Pháp,” đúng Pháp là: “Đúng Pháp,” sai Luật  là: “Sai Luật,” đúng Luật là: “Đúng Luật.”

Khi được nói như thế, các cư sĩ ở Vesālī đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này:

- Thưa ngài, chỉ có một mình ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka là sa-môn Thích tử, tất cả các vị kia đều không phải là sa-môn, không phải là Thích tử. Thưa ngài, xin ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka hãy ngụ tại Vesālī. Chúng tôi sẽ nỗ lực về vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh đối với ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.

Sau đó, khi đã giải thích cho các cư sĩ ở Vesālī xong, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka với vị tỳ khưu sứ giả cùng đi đã trở về lại tu viện .

[639] Sau đó, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī đã hỏi vị tỳ khưu sứ giả cùng đi rằng:

- Này sư đệ, các cư sĩ ở Vesālī đã hòa giải với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka chưa vậy?

- Chúng ta gặp điều xúi quẩy với các cư sĩ rồi. Chỉ một mình Yasa con trai của Kākaṇḍaka được xem là sa-môn Thích tử. Còn tất cả chúng ta đã bị xem không phải là sa-môn, không phải là Thích tử.

Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesālī (đã bàn bạc rằng): “Này các đại đức, Yasa con trai của Kākaṇḍaka này chưa được chúng ta đồng ý đã giải thích cho hàng tại gia, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo đối với vị ấy.” Họ đã tụ họp lại với ý định thực thi hành sự án treo đối với vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã bay lên không trung và xuất hiện ở Kosambī.

Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu ở Pāvā (Pāṭheyyaka), Avanti, và khu vực phía nam (nói rằng): “Xin các đại đức hãy đến, chúng ta cần giải quyết sự tranh tụng này trước khi điều Phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều Phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về Phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về Phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.”

[640] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đang ngụ tại núi Ahogaṅga. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã đi đến núi Ahogaṅga gặp đại đức Sambhūta Sāṇavāsī, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sambhūta Sāṇavāsī rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với đại đức Sambhūta Sāṇavāsī điều này:

- Thưa ngài, các tỳ khưu dòng dõi Vajji này ở Vesālī truyền bá trong thành Vesālī mười sự việc: “Được phép cất giữ muối trong ống sừng, được phép ăn khi bóng mặt trời đã hai ngón tay, được phép đi vào làng rồi ăn thêm lần nữa, được phép hành lễ Uposatha riêng rẽ, được phép hành sự không đủ tỳ khưu, được phép thực hành theo tập quán, được phép uống sữa chua lúc quá ngọ, được phép uống nước trái cây lên men, được phép sử dụng tọa cụ không có viền quanh, được phép tích trữ vàng bạc.” Thưa ngài, vậy chúng ta hãy giải quyết sự tranh tụng này trước khi điều Phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều Phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về Phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về Phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.

- Này đại đức, đúng vậy. Đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đã trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.

Sau đó, các tỳ khưu ở Pāvā có số lượng sáu mươi vị tất cả là những vị sống trong rừng, tất cả là những vị hành hạnh khất thực, tất cả là những vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, tất cả là những vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đã tụ hội ở núi Ahogaṅga. Các tỳ khưu ở Avanti và khu vực phía nam có số lượng tám mươi vị,[2] một số vị sống trong rừng, một số vị hành hạnh khất thực, một số vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, một số vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đã tụ hội ở núi Ahogaṅga.

[641] Khi ấy, trong lúc các tỳ khưu trưởng lão hội ý, điều này đã khởi lên: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Làm thế nào chúng ta có thể có được nhóm, nhờ thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn?”

Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập.

Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý rằng: “Chính vị đại đức Revata này ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta có thể đạt được đại đức Revata chung nhóm, như thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn.” Trong khi các tỳ khưu trưởng lão đang hội ý, đại đức Revata đã nghe được nhờ vào thiên nhĩ thông thanh tịnh vượt trội loài người, sau khi nghe được vị ấy đã khởi ý điều này: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Điều không đúng đắn cho ta là việc ta lại tránh né sự tranh tụng như thế này. Và rồi đây, các vị tỳ khưu ấy sẽ đi đến, ta đây bị lấn cấn bởi các vị ấy sẽ cư trú không thoải mái. Hay là ta nên đi trước?” Khi ấy, đại đức Revata Soreyya đã đi đến Saṅkassa.

Sau đó, các vị tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Soreyya hỏi rằng:

- Đại đức Revata ở đâu?

Người ta đã nói như vầy:

- Vị đại đức Revata ấy đã đi Saṅkassa rồi.

 

Rồi đại đức Revata từ Saṅkassa đã đi Kaṇṇakujja. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Saṅkassa hỏi rằng:

- Đại đức Revata ở đâu?

Người ta đã nói như vầy:

- Vị đại đức Revata ấy đã đi Kaṇṇakujja rồi.

Rồi đại đức Revata từ Kaṇṇakujja đã đi Udumbara. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Kaṇṇakujja hỏi rằng:

- Đại đức Revata ở đâu?

Người ta đã nói như vầy:

- Vị đại đức Revata ấy đã đi Udumbara rồi.

Rồi đại đức Revata từ Udumbara đã đi thành phố Aggaḷa. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Udumbara hỏi rằng:

- Đại đức Revata ở đâu?

Người ta đã nói như vầy:

- Vị đại đức Revata ấy đã đi thành phố Aggaḷa rồi.

Rồi đại đức Revata từ thành phố Aggaḷa đã đi Sahajāti. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến thành phố Aggaḷa hỏi rằng:

- Đại đức Revata ở đâu?

Người ta đã nói như vầy:

- Vị đại đức Revata ấy đã đi Sahajāti rồi.

Rồi các tỳ khưu trưởng lão đã gặp được đại đức Revata ở Sahajāti.

[642] Khi ấy, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này:

- Này sư đệ, đại đức Revata này là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta hỏi đại đức Revata câu hỏi, đại đức Revata có khả năng trình bày trọn đêm chỉ với một câu hỏi ấy. Và giờ đây, đại đức Revata sẽ gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Khi chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, chính đệ nên đi đến gặp đại đức Revata và hỏi về mười sự việc ấy.

- Thưa ngài, xin vâng. Đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã trả lời đại đức Sambhūta Sāṇavāsī.

Sau đó, đại đức Revata đã gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Khi chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, khi ấy đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã đi đến gặp đại đức Revata, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Revata rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với đại đức Revata điều này:

- Thưa ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép?

- Này sư đệ, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, là mang theo muối bằng ống sừng (nghĩ rằng): “Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp (thức ăn) thiếu muối,” có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định hai ngón tay là được phép?

- Này sư đệ, quy định hai ngón tay ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, là thọ dụng vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu ở trên đất) đã dài hai ngón tay, có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định trong làng là được phép?

- Này sư đệ, quy định trong làng ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, là vị đã ăn xong đã được thỏa mãn (nghĩ rằng): “Bây giờ, ta sẽ đi vào trong làng” rồi thọ dụng thức ăn không phải là còn thừa, có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định về chỗ trú ngụ là được phép?

- Này sư đệ, quy định về chỗ trú ngụ ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, là nhiều trú xứ có chung ranh giới (sīmā) thực hiện lễ Uposatha (Bố Tát) riêng biệt, có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định về sự thỏa thuận là được phép?

- Này sư đệ, quy định về sự thỏa thuận ấy là như thế nào?

- Thưa ngài là thực thi hành sự với hội chúng không đủ số lượng (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ thuyết phục các tỳ khưu đi đến,” có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định theo tập quán là được phép?

- Này sư đệ, quy định theo tập quán ấy là như thế nào?

- Thưa ngài là (vị nghĩ rằng): “Điều này đã được thực hành bởi thầy tế độ của ta, điều này đã được thực hành bởi thầy giáo thọ của ta” rồi thực hành theo, có được phép không?

- Này sư đệ, quy định theo tập quán có điều được phép, có điều không được phép.

- Thưa ngài, quy định chưa được khuấy là được phép?

- Này sư đệ, quy định chưa được khuấy ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, có loại sữa đã qua khỏi trạng thái sữa nhưng chưa đạt đến trạng thái sữa đông, vị đã ăn xong đã được thỏa mãn uống loại sữa ấy không phải là còn thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định uống nước trái cây lên men là được phép?

- Này sư đệ, quy định uống nước trái cây lên men ấy là như thế nào?

- Thưa ngài, là uống loại rượu vừa mới lên men nhưng chưa đạt đến trạng thái rượu mạnh.

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, quy định tọa cụ không có viền quanh là được phép?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, vàng bạc là được phép?

- Này sư đệ, không có được phép.

- Thưa ngài, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ấy ở Vesālī truyền bá trong thành Vesālī mười sự việc này. Thưa ngài, chúng ta hãy giải quyết sự tranh tụng này trước khi điều Phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều Phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về Phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về Phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.

- Này sư đệ, đúng vậy. Đại đức Revata đã trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.

Dứt tụng phẩm thứ nhất


Xem Tụng phẩm thứ nhì

Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments