Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 10. Chương Tỳ Khưu Ni - Tụng phẩm thứ nhì

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

10. Chương Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ nhì


[533] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư: Việc không cần đảnh lễ

[534] Câu chuyện về các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư: Cho phép đình chỉ việc giáo giới

[537] Giảng giải về sự đình chỉ việc giáo giới

[553] Các câu chuyện về tỳ khưu ni: Việc mang dây buộc thân loại dài

[556] Việc thoa dầu ở mặt, v.v... Việc mặc y toàn màu xanh đậm, v.v...

[559] Câu chuyện vị tỳ khưu ni lâm chung

[561] Câu chuyện người đàn bà ngoại tình và việc mang đi bào thai bằng bình bát

[563] Việc nhìn chăm chú vào vật biểu tượng nam tánh

[564] Sự san sẻ vật thực

[571] Sự cho phép về các vật dụng dành riêng cho người nữ: y nội trợ, v.v...

 

[533] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã đã ngự tại Vesāli theo như ý thích đã lên đường du hành về phía thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư rắc nước bùn lên các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Để các ni có thể chú ý đến chúng ta.” ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu không nên rắc nước bùn lên các tỳ khưu ni; vị nào rắc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị tỳ khưu ấy.

Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực thi?” Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu ni không cần thực hiện việc đảnh lễ đối với vị tỳ khưu ấy.

[534] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư vén hở thân rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, vén hở đùi rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, vén hở chỗ kín rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, trò chuyện với các tỳ khưu ni, giao lưu với các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Để các ni có thể chú ý đến chúng ta.” ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu không nên vén hở thân rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, không nên vén hở đùi rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, không nên vén hở chỗ kín rồi chỉ cho các tỳ khưu ni thấy, không nên trò chuyện với các tỳ khưu ni, không nên giao lưu với các tỳ khưu ni; vị nào giao lưu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị tỳ khưu ấy.

Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực thi?” Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu ni không cần thực hiện việc đảnh lễ đối với vị tỳ khưu ấy.

[535] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư rắc nước bùn lên các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Để các vị có thể chú ý đến chúng ta.” Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên rắc nước bùn lên các tỳ khưu; vị ni nào rắc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với tỳ khưu ni ấy.

Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực thi?” Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi việc ngăn cấm (đi vào trú xứ của tỳ khưu).

Khi việc ngăn cấm được thực thi, họ không chấp hành. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép đình chỉ việc giáo giới.

[536] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư vén hở thân rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, vén hở ngực rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, vén hở đùi rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, vén hở chổ kín rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, trò chuyện với các tỳ khưu, giao lưu với các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Để các vị có thể chú ý đến chúng ta.” ...(như trên)... Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên vén hở thân rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, không nên vén hở ngực rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, không nên vén hở đùi rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, không nên vén hở chổ kín rồi chỉ cho các tỳ khưu thấy, không nên trò chuyện với các tỳ khưu, không nên giao lưu với các tỳ khưu; vị ni nào giao lưu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị tỳ khưu ni ấy.

Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực thi?” Các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi việc ngăn cấm (đi vào trú xứ của tỳ khưu).

Khi việc ngăn cấm được thực thi, họ không chấp hành. Các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, ta cho phép đình chỉ việc giáo giới.

[537] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Lễ Uposatha được phép thực hiện với tỳ khưu ni bị đình chỉ giáo giới hay không được phép?” Các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, lễ Uposatha không nên thực hiện với tỳ khưu ni bị đình chỉ giáo giới cho đến khi nào sự tranh tụng ấy chưa được giải quyết.

[538] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi sau khi đình chỉ việc giáo giới đã ra đi du hành. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ngài đại đức Udāyi sau khi đình chỉ việc giáo giới lại ra đi du hành?

...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, sau khi đình chỉ việc giáo giới rồi không nên ra đi du hành; vị nào ra đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[539] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngu dốt không có kinh nghiệm đình chỉ việc giáo giới. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, việc giáo giới không nên bị đình chỉ bởi vị ngu dốt, không có kinh nghiệm; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[540] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đình chỉ việc giáo giới không có sự việc, không có nguyên do. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, việc giáo giới không nên bị đình chỉ không có sự việc, không có nguyên do; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[541] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi đình chỉ việc giáo giới không tuyên bố quyết định. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, sau khi đình chỉ việc giáo giới, không nên không tuyên bố quyết định; vị nào không tuyên bố thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[542] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không đi (để nghe) giáo giới. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên không đi (để nghe) giáo giới; vị ni nào không đi nên được hành xử theo Pháp.[3]

[543] Vào lúc bấy giờ, toàn bộ hội chúng tỳ khưu ni đều đi (để nghe) giáo giới. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Những bà này là vợ của những ông này, những bà này là tình nhân của những ông này. Bây giờ những ông này sẽ hưởng lạc với những bà này.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên đi (để nghe) giáo giới toàn bộ hội chúng tỳ khưu ni. Nếu đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đi (để nghe) giáo giới bốn hay năm tỳ khưu ni.

[544] Vào lúc bấy giờ, bốn hay năm tỳ khưu ni đi (để nghe) giáo giới. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai y như thế:

- Những bà này là vợ của những ông này, những bà này là tình nhân của những ông này. Bây giờ những ông này này sẽ hưởng lạc với những bà này.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên đi (để nghe) giáo giới bốn hay năm tỳ khưu ni. Nếu đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đi (để nghe) giáo giới hai hay ba tỳ khưu ni.

Nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, rồi nên nói như vầy: “Thưa ngài đại đức, hội chúng tỳ khưu ni đảnh lễ ở chân của hội chúng tỳ khưu và cầu xin việc đến gần (để nghe) giáo giới. Thưa ngài, xin ban cho hội chúng tỳ khưu ni việc đến gần (để nghe) giáo giới.”

Vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha và nên nói như vầy: “Thưa ngài, hội chúng tỳ khưu ni đảnh lễ ở chân của hội chúng tỳ khưu và cầu xin việc đến gần (để nghe) giáo giới. Thưa ngài, xin ban cho hội chúng tỳ khưu ni việc đến gần (để nghe) giáo giới.”

Vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên nói rằng: “Có vị tỳ khưu nào đó đã được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni?” Nếu có vị tỳ khưu nào đó đã được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni, vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên nói rằng: “Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni, hội chúng tỳ khưu ni hãy đi đến gặp vị ấy.” Nếu không có vị tỳ khưu nào đã được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni, vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên nói rằng: “Vị đại đức nào đủ khả năng để giáo giới tỳ khưu ni?” Nếu có vị nào đó đủ khả năng để giáo giới tỳ khưu ni và vị ấy hội đủ tám điều kiện, sau khi chỉ định xong nên nói rằng: “Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni, hội chúng tỳ khưu ni hãy đi đến gặp vị ấy.” Nếu không có vị nào đủ khả năng để giáo giới tỳ khưu ni, vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên nói rằng: “Không có tỳ khưu nào được chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni, mong rằng hội chúng tỳ khưu ni có được sự hoan hỷ.”

[545] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không nhận lãnh việc giáo giới. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, không thể không nhận lãnh việc giáo giới; vị nào không nhận lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[546] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là ngu dốt. Các tỳ khưu ni đã đi đến gặp vị ấy và đã nói điều này:

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới.

- Này các chị gái, bởi vì tôi ngu dốt, làm sao tôi nhận lãnh việc giáo giới được?

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới bởi vì đức Thế Tôn đã quy định như vầy: “Các tỳ khưu nên nhận lãnh việc giáo giới cho các tỳ khưu ni.”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trừ ra vị ngu dốt các vị còn lại nhận lãnh việc giáo giới.

[547] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu ni đã đi đến gặp vị ấy và đã nói điều này:

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới.

- Này các chị gái, bởi vì tôi bị bệnh, làm sao tôi nhận lãnh việc giáo giới được?

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới, bởi vì đức Thế Tôn đã quy định như vầy: “Trừ ra vị ngu dốt, các vị còn lại nên nhận lãnh việc giáo giới.”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trừ ra vị ngu dốt, trừ ra vị bị bệnh, các vị còn lại nhận lãnh việc giáo giới.

[548] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là vị xuất hành. Các tỳ khưu ni đã đi đến gặp vị ấy và đã nói điều này:

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới.

- Này các chị gái, bởi vì tôi là vị xuất hành, làm sao tôi nhận lãnh việc giáo giới được?

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới, bởi vì đức Thế Tôn đã quy định như vầy: “Trừ ra vị ngu dốt, trừ ra vị bị bệnh, các vị còn lại nên nhận lãnh việc giáo giới.”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trừ ra vị ngu dốt, trừ ra vị bị bệnh, trừ ra vị xuất hành, các vị còn lại nhận lãnh việc giáo giới.

[549] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở trong rừng. Các tỳ khưu ni đã đi đến gặp vị ấy và đã nói điều này:

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới.

- Này các chị gái, bởi tôi cư ngụ ở trong rừng, làm sao tôi nhận lãnh việc giáo giới được?

- Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lãnh việc giáo giới, bởi vì đức Thế Tôn đã quy định như vầy: “Trừ ra vị ngu dốt, trừ ra vị bị bệnh, trừ ra vị xuất hành, các vị còn lại nên nhận lãnh việc giáo giới.”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu là vị ngụ ở rừng nhận lãnh việc giáo giới và (cho phép) quy định điểm hẹn: “Tôi sẽ thực hiện ở chỗ này.”

[550] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh việc giáo giới các tỳ khưu không thông báo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, không thể không thông báo việc giáo giới; vị nào không thông báo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[551] Vào lúc bấy giờ, sau khi nhận lãnh việc giáo giới các tỳ khưu không thực hiện (paccāharati). ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, việc giáo giới không thể không thực hiện; vị nào không thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[552] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không đi đến điểm hẹn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không thể không đi đến điểm hẹn; vị ni nào không đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[553] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni mang dây buộc thân loại dài và buộc thành dải tua với chúng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên mang dây buộc thân loại dài; vị ni nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu ni (sử dụng) dây buộc thân được thực hiện một vòng, và không nên buộc thành dải tua với nó; vị ni nào buộc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[554] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni buộc (dây thắt lưng) thành dải tua bằng sợi tre chẻ mỏng, buộc thành dải tua bằng sợi da thú, buộc thành dải tua bằng sợi vải dệt, buộc thành dải tua bằng vải dệt tết đuôi sam, buộc thành dải tua bằng vải dệt thắt bím, buộc thành dải tua bằng sợi vải coḷa, buộc thành dải tua bằng vải coḷa tết đuôi sam, buộc thành dải tua bằng vải coḷa thắt bím, buộc thành dải tua bằng chỉ tết đuôi sam, buộc thành dải tua bằng chỉ thắt bím. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên buộc (dây thắt lưng) thành dải tua bằng sợi tre chẻ mỏng, không nên buộc thành dải tua bằng sợi da thú, không nên buộc thành dải tua bằng sợi vải dệt, không nên buộc thành dải tua bằng vải dệt tết đuôi sam, không nên buộc thành dải tua bằng vải dệt thắt bím, không nên buộc thành dải tua bằng sợi vải coḷa, không nên buộc thành dải tua bằng vải coḷa tết đuôi sam, không nên buộc thành dải tua bằng vải coḷa thắt bím, không nên buộc thành dải tua bằng chỉ tết đuôi sam, không nên buộc thành dải tua bằng chỉ thắt bím; vị ni nào buộc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[555] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni bảo chà xát vùng hông với khúc xương đùi, bảo xoa bóp vùng hông với xương hàm con bò, bảo xoa bóp bàn tay, bảo xoa bóp mu bàn tay, bảo xoa bóp bàn chân, bảo xoa bóp mu bàn chân, bảo xoa bóp đùi, bảo xoa bóp mặt, bảo xoa bóp nướu răng.

Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên bảo chà xát vùng hông với khúc xương đùi, không nên bảo xoa bóp vùng hông với xương hàm con bò, không nên bảo xoa bóp bàn tay, không nên bảo xoa bóp mu bàn tay, không nên bảo xoa bóp bàn chân, không nên bảo xoa bóp mu bàn chân, không nên bảo xoa bóp đùi, không nên bảo xoa bóp mặt, không nên bảo xoa bóp nướu răng; vị ni nào bảo xoa bóp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[556] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thoa dầu ở mặt, chà xát mặt, đánh phấn ở mặt, đắp mặt bằng phấn đỏ, tô màu ở cơ thể, tô màu ở mặt, tô màu ở mặt và ở cơ thể. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên thoa dầu ở mặt, không nên chà xát mặt, không nên đánh phấn ở mặt, không nên đắp mặt bằng phấn đỏ, không nên tô màu ở cơ thể, không nên tô màu ở mặt, không nên tô màu ở mặt và ở cơ thể; vị ni nào làm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[557] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư kẻ mí mắt, làm dấu ở trán, nhìn qua cửa sổ (xuống đường phố), đứng tựa cửa lớn (khoe phần thân trên), bảo nhảy múa, hỗ trợ gái điếm, lập quán bán rượu, lập tiệm bán thịt, trưng bày cửa hiệu, tiến hành việc cho vay lấy lãi, tiến hành việc thương mãi, nuôi tôi trai, nuôi tớ gái, nuôi trai làm mướn, nuôi gái làm thuê, nuôi thú vật, buôn bán rau xanh, mang mảnh da mài dao cạo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên kẻ mí mắt, không nên làm dấu ở trán, không nên nhìn qua cửa sổ (xuống đường phố), không nên đứng tựa cửa lớn (khoe phần thân trên), không nên bảo nhảy múa, không nên hỗ trợ gái điếm, không nên lập quán bán rượu, không nên lập tiệm bán thịt, không nên trưng bày cửa hiệu, không nên tiến hành việc cho vay lấy lãi, không nên tiến hành việc thương mãi, không nên nuôi tôi trai, không nên nuôi tớ gái, không nên nuôi trai làm mướn, không nên nuôi gái làm thuê, không nên nuôi thú vật, không nên buôn bán rau xanh, không nên mang mảnh da mài dao cạo; vị ni nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[558] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mặc các y toàn màu xanh đậm, mặc các y toàn màu vàng, mặc các y toàn màu đỏ, mặc các y toàn màu đỏ sậm, mặc các y toàn màu đen, mặc các y nhuộm toàn màu nổi bật (mahāraṅga), mặc các y nhuộm toàn màu sáng chói (mahānāma),[4] mặc các y không cắt đường viền, mặc các y có đường viền rộng, mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, mặc các y có đường viền có vẽ trái cây, mặc áo choàng, mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên mặc các y toàn màu xanh đậm, không nên mặc các y toàn màu vàng, không nên mặc các y toàn màu đỏ, không nên mặc các y toàn màu đỏ sậm, không nên mặc các y toàn màu đen, không nên mặc các y nhuộm toàn màu nổi bật, không nên mặc các y nhuộm toàn màu sáng chói, không nên mặc các y không cắt đường viền, không nên mặc các y có đường viền rộng, không nên mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, không nên mặc các y có đường viền có vẽ trái cây, không nên mặc áo choàng ngắn, không nên mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây; vị ni nào mặc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[559] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ trong khi lâm chung đã nói như vầy:

- Sau khi tôi từ trần, vật dụng của tôi hãy thuộc về hội chúng.

Ở nơi ấy, các tỳ khưu và các tỳ khưu ni tranh cãi rằng:

- Thuộc về chúng tôi, thuộc về chúng tôi.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ni trong trong khi lâm chung nói như vầy: “Sau khi tôi từ trần, vật dụng của tôi hãy thuộc về hội chúng,” trong trường hợp này, hội chúng tỳ khưu không phải là người chủ, vật dụng ấy thuộc về hội chúng tỳ khưu ni.

Này các tỳ khưu, nếu vị tu ni tập sự (sikkhamānā), …(như trên)…

Này các tỳ khưu, nếu vị sa di ni trong khi lâm chung nói như vầy: “Sau khi tôi từ trần, vật dụng của tôi hãy thuộc về hội chúng,” trong trường hợp này, hội chúng tỳ khưu không phải là người chủ, vật dụng ấy thuộc về hội chúng tỳ khưu ni.

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu trong khi lâm chung nói như vầy: “Sau khi tôi từ trần, vật dụng của tôi hãy thuộc về hội chúng,” trong trường hợp này, hội chúng tỳ khưu ni không phải là người chủ, vật dụng ấy thuộc về hội chúng tỳ khưu.

Này các tỳ khưu, nếu vị sa di, …(như trên)…

Này các tỳ khưu, nếu nam cư sĩ, …(như trên)…

Này các tỳ khưu, nếu người nữ cư sĩ, …(như trên)…

Này các tỳ khưu, nếu người nào khác trong khi lâm chung nói như vầy: “Sau khi tôi từ trần, vật dụng của tôi hãy thuộc về hội chúng,” trong trường hợp này, hội chúng tỳ khưu ni không phải là người chủ, vật dụng ấy thuộc về hội chúng tỳ khưu.

[560] Vào lúc bấy giờ, có phụ nữ nọ trước đây là người xứ Malla đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Cô ni ấy sau khi gặp vị tỳ khưu yếu đuối trên đường đã cho cái thúc bằng bả vai khiến cho té nhào. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao tỳ khưu ni lại cho vị tỳ khưu cái thúc?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên cho vị tỳ khưu cái thúc; vị ni nào cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu ni bước sang (một bên) nhường lối đi khi nhìn thấy vị tỳ khưu, ngay khi (vị ấy) còn ở đàng xa.

[561] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ khi chồng đi vắng bị có thai với tình nhân. Cô ấy đã làm cho sẩy thai rồi đã nói với vị tỳ khưu ni quen thuộc điều này:

- Thưa ni sư, xin hãy dùng bình bát mang đi cái bào thai này.

Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã bỏ cái bào thai ấy vào trong bình bát, che kín bằng y hai lớp, rồi ra đi. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực đã lập dự tính rằng: “Khi phần vật thực ta thọ lãnh đầu tiên chưa được dâng đến vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni thì ta chưa thọ thực.” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy và đã nói điều này:

- Này chị gái, hãy nhận lãnh phần vật thực.

- Thưa ngài, thôi đi.

Đến lần thứ nhì, vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:

- Này chị gái, hãy nhận lãnh phần vật thực.

- Thưa ngài, thôi đi.

Đến lần thứ ba, vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:

- Này chị gái, hãy nhận lãnh phần vật thực.

- Thưa ngài, thôi đi.

- Này chị gái, tôi đã lập dự tính rằng: “Khi phần vật thực ta thọ lãnh đầu tiên chưa được dâng đến vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni thì ta chưa thọ thực.” Này chị gái, hãy nhận lãnh phần vật thực.

Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy trong lúc bị quấy rầy bởi vị tỳ khưu ấy đã đưa bình bát ra cho thấy:

- Thưa ngài, hãy xem cái bào thai trong bình bát nè, nhưng đừng có nói với ai cả.

Khi ấy, vị tỳ khưu ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao tỳ khưu ni lại dùng bình bát mang đi cái bào thai vậy?

Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao tỳ khưu ni lại dùng bình bát mang đi cái bào thai vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên dùng bình bát mang đi bào thai; vị ni nào mang đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu ni khi gặp vị tỳ khưu thì lấy ra đưa cho xem bình bát.

[562] Vào lúc bấy giờ, khi gặp vị tỳ khưu các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lật úp (bình bát) lại và cho xem phần dưới của bình bát. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao khi gặp vị tỳ khưu các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lật úp (bình bát) lại và cho xem phần dưới của bình bát?

Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…

- Này các tỳ khưu, khi gặp vị tỳ khưu tỳ khưu ni không nên lật úp (bình bát) lại và cho xem phần dưới của bình bát; vị nào cho xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, khi gặp vị tỳ khưu ta cho phép tỳ khưu ni lật ngửa bình bát rồi đưa cho xem. Và vật thực nào có trong bình bát, nên thỉnh mời vị tỳ khưu bằng vật ấy.

[563] Vào lúc bấy giờ, trên đường phố ở thành Sāvatthi có vật biểu tượng nam tánh bị quăng bỏ. Các tỳ khưu ni đã nhìn chăm chú vào vật ấy. Dân chúng đã cười rộ lên. Các tỳ khưu ni ấy đã bị xấu hổ. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến ni viện và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại nhìn chăm chú vào vật biểu tượng nam tánh?

Sau đó, các vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên nhìn chăm chú vào vật biểu tượng nam tánh; vị nào nhìn chăm chú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[564] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thường dâng vật thực cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu cho đến các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các ngài đại đức lại cho những người khác vật thí dành để thọ dụng cho bản thân, không lẽ chúng tôi không biết cho vật thí hay sao?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên cho những người khác vật thí dành để thọ dụng cho bản thân; vị nào cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[565] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu có được vật thực dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép cúng dường đến hội chúng.

Sự dồi dào lại còn nhiều hơn trước nữa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép bố thí ngay cả vật dành riêng cho cá nhân.

[566] Vào lúc bấy giờ, vật thực được làm để tích trữ của các tỳ khưu được dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các tỷ kheo, các tỳ khưu ni nhận lãnh vật tích trữ của các tỳ khưu rồi thọ dụng.

[567] Vào lúc bấy giờ, dân chúng thường dâng vật thực cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni cho đến các tỳ khưu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu ni lại cho những người khác vật thí dành để thọ dụng cho bản thân? Không lẽ chúng tôi không biết cho vật thí hay sao?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên cho những người khác vật thí dành để thọ dụng cho bản thân; vị ni nào cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[568] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni có được vật thực dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép cúng dường đến hội chúng.

Sự dồi dào lại còn nhiều hơn trước nữa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép bố thí ngay cả vật dành riêng cho cá nhân.

[569] Vào lúc bấy giờ, vật thực được làm để tích trữ của các tỳ khưu ni được dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép các tỳ khưu, các tỳ khưu ni thọ lãnh vật tích trữ của các tỳ khưu ni rồi thọ dụng.

[570] Vào lúc bấy giờ, sàng tọa của các tỳ khưu thì dồi dào, sàng tọa của các tỳ khưu ni thì không có. Các tỳ khưu ni đã gởi sứ giả đến gặp các tỳ khưu:

- Thưa các ngài, lành thay các ngài hãy trao sàng tọa cho chúng tôi trong một thời gian.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trao sàng tọa cho các tỳ khưu ni trong một thời gian.

[571] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni có kinh nguyệt ngồi và nằm trên giường được bọc nệm, trên ghế được bọc nệm. Chỗ nằm ngồi bị lấm lem bởi máu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni không nên ngồi hoặc nằm trên giường được bọc nệm, trên ghế được bọc nệm; vị ni nào ngồi hoặc nằm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) y nội trợ (āvasathacīvaraṃ).

Y nội trợ bị lấm lem bởi máu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) kim gài và mảnh vải (āṇicol,akaṃ).

Mảnh vải bị rơi xuống Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu lại bằng chỉ và buộc ở đùi.

Chỉ bị đứt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khố (saṃvelliyaṃ) là băng vải buộc ở hông (kaṭisuttakaṃ).

[572] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư mang băng vải buộc ở hông một cách thường xuyên. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- ...(như trên)... giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên mang băng vải buộc ở hông một cách thường xuyên; vị ni nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) băng vải buộc ở hông đối với vị ni có kinh nguyệt.

Dứt tụng phẩm thứ hai

Xem Tụng phẩm thứ baXem tiếp Chương 11

Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments