Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 10. Chương Tỳ Khưu Ni - Tụng phẩm thứ ba

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

10. Chương Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ ba


[573] Hai mươi bốn pháp chướng ngại

[574] Sự cho phép người nữ được tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu ni trước rồi ở hội chúng tỳ khưu sau.

[575] Chỉ định vị giảng giải: Chỉ định cho chính mình. Chỉ định cho người khác

[578] Sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu ni

[579] Sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu

[581] Sự chỉ dạy

[582] Quy định chỗ ngồi

[584] Giảng về lễ Pavāraā (Tự Tứ) ở hai hội chúng

[590] Việc cấm tỳ khưu ni đình chỉ lễ Uposatha (Bố Tát), v.v... của tỳ khưu

[591] Việc cho phép tỳ khưu đình chỉ lễ Uposatha, v.v... của tỳ khưu ni

[592] Vịệc di chuyển bằng xe, v.v...

[595] Sự tu lên bậc trên thông qua người đại diện: Câu chuyện Aḍḍhakāsī

[597] Tỳ khưu ni không nên cư ngụ ở trong rừng. Chỗ ở của tỳ khưu ni

[599] Chỉ định vị cộng sự với tỳ khưu ni có con trai

[600] Chỉ định vị cộng sự với tỳ khưu ni là vị đang thực hành mānatta

[601] Không có việc từ bỏ học giới đối với tỳ khưu ni

[602] Cô ni sinh hoạt trong khu vực của ngoại đạo

[604] Không được ngồi thế kiết già

[607] Bột phấn thoa. Việc tắm, v.v...

[613] Bài kệ tóm lược

 

[573] Vào lúc bấy giờ, các người nữ đã tu lên bậc trên có dáng vẻ: không có hiện tướng (người nữ), không có đủ hiện tướng (người nữ), không có kinh nguyệt (alohitā), bị băng huyết (dhuvalohitā), thường xuyên mang vải lót (dhuvacoḷā), bị rong kinh (paggharantī), bị dị căn (sikhariṇī), người nữ vô căn (itthipaṇḍakā), bị lại đực (vepurisikā), tiêu tiểu chung một khiếu (sambhinnā), người nữ lưỡng căn (ubhatobyañjanā). ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép hỏi hai mươi bốn pháp chướng ngại trong khi cho tu lên bậc trên. Và này các tỳ khưu, nên hỏi như vầy: “Cô không phải là người không có hiện tướng (người nữ)? Cô không phải là người không có đủ hiện tướng (người nữ)? Cô không phải là người không có kinh nguyệt? Cô không phải là người bị băng huyết? Cô không phải là người thường xuyên mang vải lót? Cô không phải là người bị rong kinh? Cô không phải là người bị dị căn? Cô không phải là người nữ vô căn? Cô không phải là người bị lại đực? Cô không phải là người tiêu tiểu chung một khiếu? Cô không phải là người nữ lưỡng căn? Cô có bị các bệnh như thế này hay không: bệnh cùi (kuṭṭhaṃ)? bệnh mụt nhọt (gaṇḍo)? bệnh chàm (kilāso)? bệnh lao phổi (soso)? bệnh động kinh (apamāro)? Cô là loài người? Cô là người nữ? Cô là người được tự do (không phải nô lệ)? Cô không bị thiếu nợ? Cô không phải là lính của vua? Cô đã được cho phép bởi cha mẹ, bởi người chồng? Cô đã tròn hai mươi tuổi? Cô có đầy đủ y bát không? Cô tên gì? Ni sư tế độ (pavattinī) tên gì?”

[574] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hỏi các pháp chướng ngại của các tỳ khưu ni. Các cô có ý muốn tu lên bậc trên bị bối rối, trở nên mắc cở, không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép người nữ tu lên bậc trên từ một phía, sau khi được trong sạch ở hội chúng tỳ khưu ni rồi được tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu.

[575] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni hỏi các pháp chướng ngại đến các cô có ý muốn tu lên bậc trên chưa được học tập. Các cô có ý muốn tu lên bậc trên bị bối rối, trở nên mắc cở, không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải trước rồi hỏi các pháp chướng ngại sau

Các vị đã giảng giải ngay tại chổ ấy, ở giữa hội chúng. Như thế ấy, các cô có ý muốn tu lên bậc trên bị bối rối, trở nên mắc cở, không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải ở một góc rồi hỏi các pháp chướng ngại ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên giảng giải như vầy: Trước tiên, nên bảo chọn vị thầy tế độ. Sau khi đã bảo chọn vị thầy tế độ rồi nên chỉ y bát: “Đây là bình bát của cô, đây là y hai lớp (saṅghāṭi), đây là thượng y, đây là y nội, đây là áo lót, đây là vải choàng tắm. Hãy đi đến đứng ở chỗ trống đàng kia.”

Các vị ni ngu dốt, thiếu kinh nghiệm giảng giải. Được giảng giải tồi, các cô có ý muốn tu lên bậc trên bị bối rối, trở nên mắc cở, không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vị ni ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên giảng giải; vị ni nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực được giảng giải.

Những vị ni chưa được chỉ định giảng giải. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vị ni chưa được chỉ định không nên giảng giải; vị ni nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị ni đã được chỉ định được giảng giải. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.

[576] Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ giảng giải cho cô ni tên (như vầy).”

Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.

[577] Thế nào là người khác chỉ định cho người khác? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị ni tên (như vầy) sẽ giảng giải cho cô ni tên (như vầy).”

Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.

[578] Vị tỳ khưu ni đã được chỉ định ấy nên đi đến gần cô có ý muốn tu lên bậc trên và nên nói như vầy:

- Này cô tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với cô, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: “Đúng;” nếu không đúng, nên nói: “Không đúng.” Không nên bối rối, không nên mắc cở. Các vị sẽ hỏi cô như vầy: “Cô không phải là người không có hiện tướng (người nữ)? Cô không phải là người không có đủ hiện tướng (người nữ)? Cô không phải là người không có kinh nguyệt? Cô không phải là người bị băng huyết? Cô không phải là người thường xuyên mang vải lót? Cô không phải là người bị rong kinh? Cô không phải là người bị dị căn? Cô không phải là người người nữ vô căn? Cô không phải là người bị lại đực? Cô không phải là người tiêu tiểu chung một khiếu? Cô không phải là người người nữ lưỡng căn? Cô có bị các bệnh như thế này hay không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Cô là loài người? Cô là người nữ? Cô là người được tự do (không phải nô lệ)? Cô không bị thiếu nợ? Cô không phải là lính của vua? Cô đã được cho phép bởi cha mẹ, bởi người chồng? Cô đã tròn hai mươi tuổi? Cô có đầy đủ y bát không? Cô tên gì? Ni sư tế độ tên gì?

Họ đi đến chung (cùng một lúc). ...(như trên)...

- ...(như trên)... Không nên đi đến chung (cùng một lúc). Vị ni giảng giải nên đi đến trước và thông báo đến hội chúng:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Tôi đã giảng giải cho cô ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, cô tên (như vầy) nên đi đến.”

Và nên nói rằng: “Cô hãy đi đến.”

(Cô ấy) nên đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên cầu xin sự tu lên bậc trên:

“Bạch chư đại đức ni, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót. Bạch chư đại đức ni, lần thứ nhì tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót. Bạch chư đại đức ni, lần thứ ba tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.”

Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi các pháp chướng ngại của cô ni tên (như vầy).”

“Này cô tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với cô, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Đúng;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không đúng.’ Cô không phải là người không có hiện tướng (người nữ)? Cô không phải là người không có đủ hiện tướng (người nữ)? …(như trên)… Cô tên gì? Ni sư tế độ tên gì?”

Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Cô ta có đầy đủ y bát. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Cô ta có đầy đủ y bát. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức ni nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Cô ta có đầy đủ y bát. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức ni nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Cô ni tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với vị đại đức ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[579] Ngay sau khi hoàn tất việc ấy, (cô ni ấy) nên đi đến hội chúng tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên cầu xin sự tu lên bậc trên:

“Bạch chư đại đức, tôi tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Tôi đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Bạch chư đại đức, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.

Bạch chư đại đức, tôi tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Tôi đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Bạch chư đại đức, lần thứ nhì tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.

Bạch chư đại đức, tôi tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Tôi đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Bạch chư đại đức, lần thứ ba tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.”

[580] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Cô ni tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[581] Ngay khi ấy, bóng nắng cần được đo đạc, việc xác định mùa tiết nên được chỉ dạy, việc phân chia ngày (giờ) nên được chỉ dạy, điều đã được kết tập lại nên được chỉ dạy, các tỳ khưu ni nên được nói rằng:

- Nên chỉ dạy cô ni này ba điều nương nhờ[5] và tám điều không nên làm.[6]

[582] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi xác định chỗ ngồi trong nhà ăn đã bị quá giờ (thọ thực). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (chỗ ngồi) của tám tỳ khưu ni tính theo thâm niên, (chỗ ngồi) của các vị còn lại tính theo thứ tự đi đến.

[583] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép (chỗ ngồi) của tám tỳ khưu ni tính theo thâm niên, (chỗ ngồi) của các vị còn lại tính theo thứ tự đi đến” nên ở khắp mọi nơi chừa lại đúng tám chỗ cho các tỳ khưu ni tính theo thâm niên, các chỗ còn lại thì theo thứ tự đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép trong nhà ăn (chỗ ngồi của) tám tỳ khưu ni tính theo thâm niên và (chỗ ngồi) của các vị còn lại tính theo thứ tự đi đến, còn ở những nơi khác không nên chừa lại theo thứ tự thâm niên; vị nào chừa lại thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[584] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hành lễ Pavāraṇā (Tự Tứ). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên không hành lễ Pavāraṇā; vị ni nào không hành lễ Pavāraṇā nên được hành xử theo Pháp.[7]

[585] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni sau khi hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu ni rồi không hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni sau khi hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu ni rồi không nên không hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu; vị ni nào không hành lễ Pavāraṇā nên được hành xử theo Pháp.

[586] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi hành lễ Pavāraṇā chỉ một phía với các tỳ khưu đã tạo nên sự xáo trộn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên hành lễ Pavāraṇā chỉ một phía với các tỳ khưu; vị ni nào hành lễ Pavāraṇā (chỉ một phía) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[587] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi hành lễ Pavāraṇā trước bữa thọ trai nên đã bị quá giờ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu ni hành lễ Pavāraṇā sau bữa thọ trai.

Sau bữa thọ trai, các vị trong khi còn hành lễ Pavāraṇā đã bị trời tối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu ni ngày hôm nay và hành lễ Pavāraṇā nơi hội chúng tỳ khưu vào ngày kế.

[588] Vào lúc bấy giờ, toàn bộ hội chúng tỳ khưu ni trong lúc hành lễ Pavāraṇā đã gây nên sự lộn xộn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định một vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm đủ năng lực để thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu vì lợi ích của hội chúng tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước tiên, vị tỳ khưu ni nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) để thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu vì lợi ích của hội chúng tỳ khưu ni. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) để thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu vì lợi ích của hội chúng tỳ khưu ni. Đại đức ni nào đồng ý việc chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) để thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu vì lợi ích của hội chúng tỳ khưu ni xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu vì lợi ích của hội chúng tỳ khưu ni. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[589] Vị tỳ khưu ni đã được chỉ định ấy nên đưa hội chúng tỳ khưu ni đi đến gặp hội chúng tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

“Bạch các ngài, hội chúng tỳ khưu ni xin thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu. Bạch các ngài, do được thấy, hoặc do được nghe, hoặc vì nghi ngờ, bởi lòng thương xót đối với hội chúng tỳ khưu ni xin hội chúng tỳ khưu hãy nói lên; khi thấy (lỗi) rồi sẽ sửa đổi.

Đến lần thứ nhì, bạch các ngài …(như trên)…

Đến lần thứ ba, bạch các ngài, hội chúng tỳ khưu ni xin thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu. Bạch các ngài, do được thấy, hoặc do được nghe, hoặc vì nghi ngờ, bởi lòng thương xót đối với hội chúng tỳ khưu ni xin hội chúng tỳ khưu hãy nói lên; khi thấy (lỗi) rồi sẽ sửa đổi.”

[590] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā, ban hành mệnh lệnh, thiết lập quyền hạn, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở đối với các tỳ khưu. ...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên đình chỉ lễ Uposatha của tỳ khưu, dầu đã bị đình chỉ cũng như không bị đình chỉ; vị ni đình chỉ phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, dầu đã bị đình chỉ cũng như không bị đình chỉ; vị ni đình chỉ phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên ban hành mệnh lệnh, dầu đã ban hành cũng như không ban hành; vị ni ban hành phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên thiết lập quyền hạn, dầu đã được thiết lập cũng như không được thiết lập; vị ni thiết lập phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên thỉnh ý (để buộc tội), dầu đã được thực hiện cũng như không được thực hiện, vị ni thực hiện phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên quở trách, dầu đã quở trách cũng như không quở trách, vị ni quở trách phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên nhắc nhở, dầu đã nhắc nhở cũng như không nhắc nhở, vị ni nhắc nhở phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[591] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đình chỉ lễ Uposatha đình chỉ lễ Pavāraṇā, ban hành mệnh lệnh, thiết lập quyền hạn, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở đối với các tỳ khưu ni. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu được đình chỉ lễ Uposatha của tỳ khưu ni, khi đã được đình chỉ thì đã được đình chỉ đúng đắn; vị đình chỉ vô tội. Được đình chỉ lễ Pavāraṇā; khi đã được đình chỉ thì đã được đình chỉ đúng đắn; vị đình chỉ vô tội. Được ban hành mệnh lệnh, khi đã được ban hành thì đã được ban hành đúng đắn; vị ban hành vô tội. Được thiết lập quyền hạn, khi đã được thiết lập thì đã được thiết lập đúng đắn; vị thiết lập vô tội. Được thỉnh ý (để buộc tội), khi đã được thực hiện thì đã được thực hiện đúng đắn; vị thực hiện vô tội. Được quở trách, khi đã quở trách thì đã quở trách đúng đắn; vị quở trách vô tội. Được nhắc nhở, khi đã nhắc nhở thì đã nhắc nhở đúng đắn; vị nhắc nhở vô tội.

[592] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe được kéo bởi bò cái với con bò đực ở giữa, hoặc được kéo bởi bò đực với con bò cái ở giữa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như lễ hội ở vùng Gaṅgā và Mahī vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên di chuyển bằng xe; vị ni nào di chuyển nên được hành xử theo Pháp.[8]

[593] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh, không thể bước đi bằng chân được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) xe đối với vị tỳ khưu ni bị bệnh.

Khi ấy, các tỳ khưu ni đã khởi ý điều này: “Vậy được kéo bởi bò cái? Hay được kéo bởi bò đực?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) toa xe được kéo bởi bò cái hoặc được kéo bởi bò đực.

[594] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ đã bị khó chịu dữ dội vì xe bị dằn xóc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) kiệu khiêng, ghế khiêng.

[595] Vào lúc bấy giờ, cô kỷ nữ Aḍḍhakāsī đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Và cô ấy có ý định đi đến Sāvatthi: “Ta sẽ tu lên bậc trên với đức Thế Tôn.” Những kẻ bất lương đã nghe rằng: “Nghe nói kỷ nữ Aḍḍhakāsī có ý định đi đến Sāvatthi.” Bọn họ đã bao vây các ngõ đường. Cô kỷ nữ Aḍḍhakāsī đã nghe rằng: “Nghe nói những kẻ bất lương đã bao vây các ngõ đường” nên đã phái sứ giả đến gặp đức Thế Tôn (thưa rằng): “Bởi vì con có ước muốn tu lên bậc trên, con nên tiến hành như thế nào?” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện.

Các vị cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là tỳ khưu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là tỳ khưu; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Các vị cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là cô ni tu tập sự (sikkhamānā) …(như trên)… Các vị cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là sa di …(như trên)… Các vị cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là sa di ni …(như trên)… Các vị cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là cô ni ngu dốt thiếu kinh nghiệm.

- Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là cô ni ngu dốt thiếu kinh nghiệm; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép cho tu lên bậc trên thông qua người đại diện là vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực.

Vị tỳ khưu ni đại diện ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, rồi nên nói như vầy:

“Bạch các ngài, cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ấy không đi đến chính vì có sự chướng ngại. Bạch các ngài, cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ cô ấy vì lòng thương xót.

Bạch các ngài, cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ấy không đi đến chính vì có sự chướng ngại. Bạch các ngài, lần thứ nhì cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ cô ấy vì lòng thương xót.

Bạch các ngài, cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ni không đi đến chính vì có sự chướng ngại. Bạch các ngài, lần thứ ba cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ cô ấy vì lòng thương xót.”

[596] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ấy không đi đến chính vì có sự nguy hiểm. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ấy không đi đến chính vì có sự nguy hiểm. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch chư đại đức, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy). Cô ta đã được tu lên bậc trên từ một phía ở hội chúng tỳ khưu ni, và được trong sạch. Cô ấy không đi đến chính vì có sự nguy hiểm. Cô ni tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Hội chúng cho cô ni tên (như vầy) tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của cô ni tên (như vầy) với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Cô ni tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với vị ni tên (như vầy) là ni sư tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Ngay khi ấy, bóng nắng cần được đo đạc, việc xác định mùa tiết nên được chỉ dạy, việc phân chia ngày (giờ) nên được chỉ dạy, điều đã được kết tập lại nên được chỉ dạy, các tỳ khưu ni nên được nói rằng:

- Hãy chỉ dạy cô ni này ba điều nương nhờ và tám điều không nên làm.

[597] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni cư ngụ ở trong rừng. Những kẻ bất lương làm hỗn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên cư ngụ ở trong rừng; vị ni nào cư ngụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[598] Vào lúc bấy giờ, kho chứa đồ đạc đã được nam cư sĩ nọ cúng dường đến hội chúng tỳ khưu ni. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (cư ngụ ở) kho chứa đồ đạc.

Kho chứa đồ không đáp ứng (nhu cầu). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) căn nhà.

Căn nhà không đáp ứng (nhu cầu). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) công trình mới.

Công trình mới không đáp ứng (nhu cầu). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng theo cá nhân.

[599] Vào lúc bấy giờ, có phụ nữ mang thai nọ được xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Khi cô ấy đã xuất gia, cái thai đã chào đời. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã khởi ý điều này: “Ta nên thực hành như thế nào liên quan đến đứa bé trai này?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép nuôi dưỡng cho đến khi đứa bé trai ấy đạt được sự hiểu biết.[9]

Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã khởi ý điều này: “Ta không thể sống mỗi một mình, và tỳ khưu ni khác không thể sống với đứa bé trai, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định một tỳ khưu ni và cho làm người cộng sự với tỳ khưu ni kia. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước tiên, vị tỳ khưu ni cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý sự chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Khi ấy, tỳ khưu ni cộng sự ấy đã khởi ý điều này: “Ta nên thực hành như thế nào liên quan đến đứa bé trai này?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hành liên quan đến đứa bé trai này tương tợ như là thực hành liên quan đến người đàn ông khác ngoại trừ việc ngụ chung nhà.

[600] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị phạm tội nặng và là vị đang thực hành hành phạt mānatta. Khi ấy, tỳ khưu ni ấy đã khởi ý điều này: “Ta không thể sống mỗi một mình, và vị tỳ khưu ni khác không thể sống với ta, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định một tỳ khưu ni và cho làm người cộng sự với tỳ khưu ni kia. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước tiên, vị tỳ khưu ni cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm đủ năng lực:

“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Đại đức ni nào đồng ý việc chỉ định tỳ khưu ni tên (như vầy) là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là người cộng sự với tỳ khưu ni tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[601] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ đã hoàn tục khi chưa xả bỏ sự học tập. Cô ấy đã quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu ni sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, không có việc xả bỏ sự học tập đối với tỳ khưu ni; chính khi cô ta bỏ đi thì khi ấy cô ta không còn là tỳ khưu ni nữa.

[602] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ vẫn mang y ca-sa đã chuyển sang sinh hoạt trong khu vực của ngoại đạo. Cô ấy đã quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu ni sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni nào mang y ca-sa chuyển sang sinh hoạt trong khu vực của ngoại đạo, khi cô ấy quay trở lại thì không nên cho tu lên bậc trên nữa.[10]

[603] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni do ngại ngùng nên không thừa nhận việc đảnh lễ, việc cạo tóc, việc cắt móng, việc băng bó vết thương bởi những người đàn ông. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thừa nhận (những việc ấy).

[604] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni ngồi kiết già thỏa thích với sự xúc chạm ở gót chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên ngồi kiết già; vị ni nào ngồi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[605] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ bị bệnh. Không xếp chân thế kiết già, vị ni ấy không được an lạc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thế bán già đối với tỳ khưu ni.

[606] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni đại tiện ở nhà vệ sinh. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư trục bào thai ngay tại chỗ ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên thực hiện việc đại tiện ở trong nhà vệ sinh; vị ni nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện việc đại tiện ở chỗ trống trải phần bên dưới và che kín phần bên trên.

[607] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tắm với bột phấn thoa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm với bột phấn thoa; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cám thô và đất sét.

[608] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tắm với đất sét có mùi thơm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm với đất sét có mùi thơm; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đất sét loại bình thường.

[609] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư trong khi tắm ở nhà tắm hơi đã gây nên sự lộn xộn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm ở nhà tắm hơi; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[610] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tắm ở luồng nước chảy. Các vị ni đã thỏa thích với sự xúc chạm của giòng nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm ở luồng nước chảy; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[611] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tắm ở chỗ không phải là bãi tắm. Những kẻ bất lương làm hỗn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm ở chỗ không phải là bãi tắm; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[612] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tắm ở bãi tắm dành cho người nam. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- …(như trên)… giống như các người nữ tại gia hưởng dục vậy?

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni không nên tắm ở bãi tắm dành cho người nam; vị ni nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép tắm ở bãi tắm dành cho phụ nữ.

Dứt tụng phẩm thứ ba

Dứt Chương Tỳ Khưu Ni là chương thứ mười

Trong chương này có một trăm lẻ sáu sự việc

Tóm lược chương này:

[613]

Gotamī xin tu,

đấng Thiện Thệ không cho,

vị Lãnh Đạo đã rời

Kapilavatthu

đi đến Vesālī.

Bà đầy bụi, ở cửa,

Ānanda biết đến,

rồi ngài đã yêu cầu

bằng cách: “Có khả năng?”

“Là mẹ,” và “Bảo mẫu.”

Trăm năm và hôm nay,

không tỳ khưu, mong mỏi,

Tự Tứ và Trọng Pháp,

hai năm, không được mắng,

bị cấm và tám pháp,

thực hành đến trọn đời,

việc thọ trì Trọng Pháp,

chính là việc cho bà

được tu lên bậc trên.

Ngàn năm còn năm trăm,

trộm cướp, bệnh mốc trắng,

tương tợ bệnh rệp cây,

việc tổn hại Chánh Pháp.

người cần phải đắp đê,

tương tợ như là việc

tồn tại của Chánh Pháp.

Bà được tu bậc trên,

đảnh lễ theo thâm niên.

không thực hành, tại sao?

tương đương, không tương đương,

giáo giới và giới bổn,

“Ai sẽ đến chỗ ni?”

Họ không biết, chỉ dạy,

không làm với tỳ khưu,

cho phép các tỳ khưu

được phép ghi nhận tội,

bởi các tỳ khưu ni,

việc ghi nhận (được hành).

Vị ấy đã chỉ dẫn,

hành sự với tỳ khưu,

dân chúng thì phàn nàn,

hoặc do tỳ khưu ni,

được chỉ dạy, xung đột,

sau khi bàn giao lại,

Uppalavaṇṇā.

Ở thành Sāvatthi,

nước bùn, không đảnh lễ,

(khoe) thân thể và đùi,

chỗ kín, và trò chuyện,

họ giao lưu nhóm bọn,

hành phạt không đảnh lễ,

các vị tỳ khưu ni

cũng giống y như thế.

Việc ngăn cấm, giáo giới,

được phép? Vị bỏ đi,

ngu dốt, không lý lẽ,

không tuyên bố quyết định,

việc giáo giới, hội chúng,

với năm ni, hai ni,

ba ni, không thọ lãnh,

vị dốt, bệnh, ra đi,

vị ở rừng, không báo,

và họ không đi đến.

Dài, tre chẻ, da thú,

vải dệt, tết đuôi sam,

sợi vải tết đuôi sam,

chỉ sợi tết đuôi sam

và thắt bím, khúc  xương,

và xương hàm con bò,

phần mu của bàn tay,

cũng như thế ở chân,

ở đùi, mặt, nướu răng,

thoa dầu, xát, đánh phấn,

đắp mặt, tô cơ thể,

và tô màu ở mặt,

như thế ở hai nơi,

kẻ mí mắt, dấu trán,

nhìn ra, tựa cửa lớn,

và việc nhảy múa chung,

gái điếm, quán bán rượu,

tiệm bán thịt, bày hàng,

lấy lãi, làm thương mãi,

tớ trai, gái, nhân công,

gái làm thuê nuôi nấng,

thú vật, rồi buôn bán,

họ mang vải mài dao.

Màu xanh đậm, vàng, đỏ,

y đỏ sậm, màu đen,

màu nổi bật, sáng chói,

không cắt, viền quá rộng,

hoa, cây trái, áo choàng,

và mặc vải sợi cây.

Tỳ khưu ni, học nữ,

sa di ni chết đi,

để lại các vật dụng,

tỳ khưu ni là chủ.

Của tỳ khưu, sa di,

của thiện nam, tín nữ,

vật người khác để lại,

các tỳ khưu là chủ.

Cô ni người Malla,

bào thai, đáy bình bát,

dương vật, và thức ăn,

dồi dào và nhiều nữa,

vật thực để tích trữ,

của các vị tỳ khưu,

phần dưới giống như vậy,

làm tương tợ như thế

đối với tỳ khưu ni.

Chỗ ngồi, có kinh nguyệt,

bị dơ, và mảnh vải,

bị đứt, và mọi lúc,

lại không có hiện tướng,

được thấy thiếu hiện tướng,

và các kỳ kinh nguyệt,

cũng vậy, máu ứ đọng,

thường xuyên phải mang vải,

bị rong kinh, dị tướng,

vô căn, bị lại đực,

tiêu tiểu chung một đường,

và có cả hai căn.

Điều này như ở dưới,

bệnh cùi, nhọt, bệnh chàm,

lao, động kinh, là người,

là nữ, và tự do,

không nợ, không lính vua,

được phép, và hai mươi,

đủ (y bát), tên gì?                        

Ni tế độ tên gì?

Hai mươi bốn chướng ngại,

sau khi đã hỏi xong,

việc tu lên bậc trên,

các cô bị bối rối,

khi chưa được chỉ dạy,

giữa hội chúng, cũng vậy.

Chọn thầy, y hai lớp,

thượng y, và y nội.

áo lót, và vải tắm,

sau khi được chỉ dạy,

thì nên được sử dụng.

Ngu dốt, chưa chỉ định,

được làm, vị cầu xin,

hỏi các pháp chướng ngại,

cô ni đã được tu

lên bậc trên một phía,

ở hội chúng tỳ khưu

thời cũng y như thế,

bóng nắng, mùa tiết, ngày,

điều đã được kết tập,

ba vật được nương nhờ,

tám điều chẳng nên làm.

(Trễ) giờ, ở mọi nơi

đều được chừa tám chỗ,

tỳ khưu ni không hành

lễ Pavāraṇā,

và cũng y như thế

nơi hội chúng tỳ khưu.

Xáo trộn trước bữa ăn,

xáo trộn vì tối trời,

lễ Bố Tát, Tự Tứ,

mệnh lệnh và quyền hạn,

giành chỗ, trách, nhắc nhở,

Đại Ẩn Sĩ ngăn cấm,

cũng như thế tỳ khưu

đối với tỳ khưu ni,

Đại Ẩn Sĩ cho phép.

Đi xe, bệnh, buộc vào,

xe thì bị dằn xóc,

chuyện Aḍḍhakāsī,

tỳ khưu, ni tập sự,

sa di, sa di ni,

và bởi ni ngu dốt.

Trong rừng, bởi thiện nam,

kho chứa đồ, nhà ở,

công trình mới chẳng màng.

Vị ni ở một mình,

đã có thai từ trước,

chung nhà, và tội nặng,

chưa xả bỏ (điều học)

và ni ấy đến gần.

Việc đảnh lễ, cạo tóc,

cắt móng, băng vết thương.

Thế kiết già, vị bệnh,

đại tiện, và bột tắm,

tẩm hương thơm, nhà tắm,

ở nơi giòng nước chảy,

không phải là bãi tắm,

và (tắm) với người nam.

Gotamī cầu xin,

Ānanda khôn khéo,

đã có được tứ chúng.

Các vị đã xuất gia

trong Giáo Pháp của Phật,

có trí óc bén nhạy

vì lợi ích chúng sanh,

và phát triển Chánh Pháp,

giống như thuốc người bệnh,

cũng thế Phật dạy rồi.

Được hướng dẫn như thế

ở ngay trong Chánh Pháp,

các cô người nữ khác

cũng đạt đến Bất Tử,

đến được nơi ấy rồi

không còn sầu khổ nữa.

[1] Là việc tiến hành lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) sau khi an cư mùa mưa (Chú thích của người dịch).

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích như sau: Nói đến 1000 năm là đề cập đến sự diệt tận các lậu hoặc với sự thành đạt về bốn Tuệ Phân Tích. Từ đó về sau là 1000 năm của sự diệt tận các lậu hoặc do thuần túy Minh Sát, 1000 năm của đạo quả Bất Lai, 1000 năm của đạo quả Nhất Lai, 1000 năm của đạo quả Nhập Lưu. Như vậy, Pháp Thành sẽ tồn tại 5000 năm

[3] Liên quan đến tám Trọng Pháp và tội pācittiya (ưng đối trị) 58 của tỳ khưu ni.

[4] Không tìm thấy lời giải thích của ngài Buddhaghosa về hai màu nhuộm này và cũng không tìm thấy nghĩa dịch ở từ điển. Dịch giả I. B. Horner dịch là brownish-yellow (vàng nâu) và reddish-yellow (vàng cam). Chúng tôi tạm phỏng dịch theo từ và mạch văn.

[5] Tỳ khưu ni không được ngụ ở rừng nên không có điều nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây, trong khi tỳ khưu có bốn điều.

[6] Là tám điều pārājika (bất cộng trụ), trong khi tỳ khưu chỉ có bốn điều.

[7] Phần này và phần kế tiếp liên quan đến tám Trọng Pháp và tội pācittiya (ưng đối trị) 57 của tỳ khưu ni.

[8] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 85 của tỳ khưu ni.

[9] Ngài Buddhaghosa giải thích là cho đến khi đứa bé có thể nhai, ăn, tắm, trang phục đúng cách.

[10] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng ngay cả việc xuất gia (làm sa di ni) cũng không được.

Hết Chương 10 - Xem tiếp Chương 11

Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments