Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 2
07. Chương Chia Rẽ Hội Chúng (Saṅghabhedakkhandhakaṃ)
1. Tụng phẩm thứ nhất
[337] Câu chuyện Mahānāma và Anuruddha dòng Sākya, công việc gia
đình
[340] Câu chuyện Anuruddha dòng Sākya và đức vua Bhaddiya dòng
Sākya
[341] Câu chuyện bảy vị xuất gia
[344] Câu chuyện bốn vị dòng Sākya. Câu chuyện về tỳ khưu
Bhaddiya
[347] Bài kệ cảm hứng
[349] Câu chuyện Devadatta và hoàng tử Ajātasattu
[350] Câu chuyện thiên tử Kakudha và ngài Mahāmoggallāna
[352] Giảng về năm hạng đạo sư
[359] Devadatta được lợi lộc. Ví dụ về cây chuối, cây tre, cây sậy,
con lừa cái
[337] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngụ tại Anupiyā. Anupiyā là
tên của một thị trấn của xứ Malla. Vào lúc bấy giờ, nhiều vương tử rất danh tiếng
thuộc dòng dõi Sākya (Thích Ca) xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người)
đã xuất gia.
[338] Vào lúc bấy giờ, Mahānāma dòng Sākya và Anuruddha dòng
Sākya là hai anh em. Anuruddha dòng Sākya là người mảnh mai. Vị ấy có ba tòa
lâu đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, một dành cho mùa mưa.
Trong bốn tháng ở trong tòa lâu đài dành cho mùa mưa, vị ấy luôn được vây quanh
bởi các nữ công tấu nhạc không bước xuống phía dưới của tòa lâu đài. Khi ấy,
Manānāma dòng Sākya đã khởi ý điều này: “Hiện nay nhiều vương tử rất danh tiếng
thuộc dòng dõi Sākya đã xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người) đã xuất
gia. Còn gia tộc của chúng ta thì không có người nào rời nhà xuất gia sống
không nhà cả. Có lẽ hoặc là ta hoặc là Anuruddha nên xuất gia?” Sau đó,
Mahānāma dòng Sākya đã đi đến gặp Anuruddha dòng Sākya, sau khi đến đã nói với
Anuruddha dòng Sākya điều này:
- Này Anuruddha yêu dấu, hiện nay nhiều vương tử rất danh tiếng
thuộc dòng dõi Sākya đã xuất gia noi theo gương đức Thế Tôn (là người) đã xuất
gia. Còn gia tộc của chúng ta thì không có người nào rời nhà xuất gia sống
không nhà cả. Chính vì điều ấy, hoặc là em hoặc là anh nên xuất gia.
- Em thì mảnh mai, em không thể rời nhà xuất gia sống không nhà.
Anh hãy xuất gia đi.
- Anuruddha yêu dấu, vậy hãy đến, anh sẽ chỉ dạy công việc gia
đình cho em. Trước tiên, cần cho cày xới ruộng nương, sau khi cho cày xới rồi cần
cho gieo hạt, sau khi cho gieo hạt rồi cần cho đưa nước vào, sau khi cho đưa nước
vào rồi cần cho tưới nước đều khắp các ruộng, sau khi cho tưới nước đều khắp
các ruộng cần cho nhổ cỏ, sau khi cho nhổ cỏ rồi cần cho gặt hái, sau khi cho gặt
hái rồi cần cho thâu hoạch, sau khi cho thâu hoạch rồi cần cho chất thành đống,
sau khi cho chất thành đống rồi cần cho đập giũ, sau khi cho đập giũ rồi cần
cho tách rơm ra, sau khi cho tách rơm ra cần cho tách trấu ra, sau khi cho tách
trấu ra cần cho sàng sảy, sau khi cho sàng sảy rồi cần cho đem cất vào kho, sau
khi cho đem cất vào kho rồi vào mùa tới cũng cần được làm y như thế, vào mùa tới
nữa cũng cần được làm y như thế.
- Thế các công việc không được ngưng lại hay sao? Sự chấm dứt của
các công việc không được biết đến hay sao? Khi nào các công việc sẽ được ngưng
lại? Khi nào sự chấm dứt các công việc sẽ được biết đến? Khi nào chúng ta mới
được rảnh rỗi mà hưởng thụ năm phần dục lạc đã được ban cho và cung ứng?
- Này Anuruddha yêu dấu, công việc không được ngưng lại. Sự chấm
dứt của các công việc không được biết đến. Khi công việc vẫn chưa ngưng lại,
cha mẹ và ông đã qua đời.
- Như vậy thì chính anh hãy biết lấy công việc gia đình. Em sẽ rời
nhà xuất gia sống không nhà.
[339] Sau đó, Anuruddha dòng Sākya đã đi đến gặp người mẹ, sau
khi đến đã nói với người mẹ điều này:
- Thưa mẹ, con muốn rời nhà xuất gia sống không nhà. Thưa mẹ, hãy
cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi được nói như thế, mẹ của Anuruddha dòng Sākya đã nói với
Anuruddha dòng Sākya điều này:
- Này Anuruddha yêu dấu, các con là hai người con trai thân
thương, quý mến, yêu dấu của mẹ. Cho dù chết đi, mẹ vẫn không muốn xa các con.
Làm sao trong lúc con đang còn sống, mẹ lại cho phép rời nhà xuất gia sống
không nhà được?
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, Anuruddha đã nói với người mẹ điều này:
- Thưa mẹ, con muốn rời nhà xuất gia sống không nhà. Thưa mẹ, hãy
cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.
[340] Vào lúc bấy giờ, đức vua Bhaddiya dòng Sākya trị vì lãnh thổ
Sākya. Và đức vua là bạn của Anuruddha dòng Sākya. Khi ấy, mẹ của Anuruddha
dòng Sākya (nghĩ rằng): “Đức vua Bhaddiya dòng Sākya này trị vì lãnh thổ Sākya
là bạn của Anuruddha dòng Sākya. Vị ấy không nhiệt tình rời nhà xuất gia sống
không nhà!” nên đã nói với Anuruddha dòng Sākya điều này:
- Này Anuruddha yêu dấu, nếu đức vua Bhaddiya dòng Sākya rời nhà
xuất gia sống không nhà, thì con cũng hãy xuất gia như thế.
Sau đó, Anuruddha dòng Sākya đã đi đến gặp đức vua Bhaddiya dòng
Sākya, sau khi đến đã nói với đức vua Bhaddiya dòng Sākya điều này:
- Này bạn, việc xuất gia của tôi tùy thuộc vào bạn đó.
- Này bạn, nếu việc xuất gia của bạn tùy thuộc vào tôi, hãy làm
cho nó không còn tùy thuộc nữa. Tôi với bạn ... cứ việc xuất gia một cách thoải
mái. [1]
- Này bạn, hãy đi. Cả hai ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.
- Này bạn, tôi không thể rời nhà xuất gia sống không nhà. Điều gì
khác tôi có thể làm cho bạn thì tôi sẽ làm ngay. Bạn hãy xuất gia đi.
- Này bạn, mẹ đã nói với tôi như vầy: “Này Anuruddha yêu dấu, nếu
đức vua Bhaddiya dòng Sākya rời nhà xuất gia sống không nhà, thì con cũng hãy
xuất gia như thế.” Này bạn, bạn đã nói lời nói này: “Này bạn, nếu việc xuất gia
của bạn tùy thuộc vào tôi, hãy làm cho nó không còn tùy thuộc nữa. Tôi với bạn
... cứ việc xuất gia một cách thoải mái.” Này bạn, hãy đi. Cả hai ta sẽ rời nhà
xuất gia sống không nhà.
Vào lúc bấy giờ, loài người nói năng chân thật, tôn trọng sự chân
thật. Khi ấy, đức vua Bhaddiya dòng Sākya đã nói với Anuruddha dòng Sākya điều
này:
- Này bạn, hãy chờ đợi bảy năm. Sau bảy năm, cả hai chúng ta sẽ rời
nhà xuất gia sống không nhà.
- Này bạn, bảy năm quá lâu. Tôi không thể chờ đợi bảy năm.
- Này bạn, hãy chờ đợi sáu năm. …(như trên)… năm năm. …(như
trên)… bốn năm. …(như trên)… ba năm. …(như trên)… hai năm. …(như trên) …một
năm. Sau một năm, cả hai chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.
- Này bạn, một năm quá lâu. Tôi không thể chờ đợi một năm.
- Này bạn, hãy chờ đợi bảy tháng. Sau bảy tháng, cả hai chúng ta
sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.
- Này bạn, bảy tháng quá lâu. Tôi không thể chờ đợi bảy tháng.
- Này bạn, hãy chờ đợi sáu tháng. …(như trên)… năm tháng. … bốn
tháng. … ba tháng. … hai tháng. … một tháng. … nửa tháng. Sau nửa tháng, cả hai
chúng ta sẽ rời nhà xuất gia sống không nhà.
- Này bạn, nửa tháng quá lâu. Tôi không thể chờ đợi nửa tháng.
- Này bạn, hãy chờ đợi bảy ngày đến khi tôi trao lại vương quốc
cho các người con trai và các người em trai xong.
- Này bạn, bảy ngày không lâu lắm. Tôi sẽ chờ đợi.
[341] Khi ấy, đức vua Bhaddiya dòng Sākya, Anuruddha, Ānanda,
Bhagu, Kimila, Devadatta, với thợ cạo Upāli là người thứ bảy. Giống như trước
đây họ đã đưa nhau đi đến vườn hoa cùng với bốn loại quân binh, tương tợ như thế,
họ đã đưa nhau đi cùng với bốn loại quân binh. Khi đi đã xa, họ đã cho quân
binh trở về. Sau khi đi sang lãnh thổ khác, họ đã cởi các đồ trang sức ra, dùng
y khoác ngoài buộc lại thành gói, rồi đã nói với thợ cạo Upāli điều này:
- Này khanh Upāli, ngươi nên trở lại. Nhiêu đây cũng đủ cho cả đời
của ngươi.
[342] Sau đó, trong khi đi trở về thợ cạo Upāli đã khởi ý điều
này: “Những người dòng Sākya quả là ác độc (khi nghĩ rằng): ‘Các vương tử đã bỏ
đi vì gã này!’ cũng có thể ra lệnh giết ta. Chính các vương tử dòng Sākya này
còn rời nhà xuất gia sống không nhà, việc gì ta lại không?” Vị ấy đã mở gói đồ
ra treo các thứ ở trên cây, nói rằng: “Ai thấy được cứ việc lấy món quà” rồi đã
đi đến gặp các vương tử dòng Sākya. Các vương tử dòng Sākya ấy đã thấy thợ cạo
Upāli đang từ đàng xa đi lại, sau khi thấy đã nói với thợ cạo Upāli điều này:
- Này khanh Upāli, vì sao ngươi quay lại?
- Thưa các vương tử, ở đây trong khi quay trở về tôi đã khởi ý điều
này: “Những người dòng Sākya quả là ác độc (khi nghĩ rằng): ‘Các vương tử đã bỏ
đi vì gã này!’ cũng có thể ra lệnh giết ta. Chính các vương tử dòng Sākya này
còn rời nhà xuất gia sống không nhà, việc gì ta lại không?” Thưa các vương tử,
tôi đây đã mở gói đồ ra treo các thứ ở trên cây, nói rằng: “Ai thấy được cứ việc
lấy món quà” rồi từ đó tôi đã quay lại.
- Này khanh Upāli, ngươi đã hành động đúng về việc không quay về
vì những người dòng Sākya quả là ác độc (nghĩ rằng): “Các vương tử đã bỏ đi vì
gã này!” cũng có thể ra lệnh giết ngươi.
[343] Sau đó, các vương tử dòng Sākya ấy đã đưa thợ cạo Upāli đi
đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một
bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các vương tử dòng Sākya ấy đã nói với đức Thế
Tôn điều này:
- Bạch ngài, chúng tôi thuộc dòng Sākya có sự ngã mạn. Bạch ngài,
thợ cạo Upāli này là người hầu cận của chúng tôi lâu nay. Xin đức Thế Tôn cho
người này xuất gia trước tiên. Chúng tôi sẽ thực hiện việc đảnh lễ, việc đứng dậy,
việc chắp tay, hành động thích hợp đối với ông ta. Như thế, sự ngã mạn của dòng
Sākya trong những người Sākya chúng tôi sẽ không còn nữa.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã cho thợ cạo Upāli xuất gia trước tiên kế đến
là các vương tử dòng Sākya ấy.
[344] Sau đó ngay trong năm ấy, đại đức Bhaddiya đã thực chứng
Tam Minh, đại đức Anuruddha đã đạt được thiên nhãn, đại đức Ānanda đã thực chứng
quả Nhập Lưu, Devadatta đã thành tựu được thần thông của phàm nhân.
[345] Vào lúc bấy giờ, đại đức Bhaddiya mặc dầu ở trong rừng, mặc
dầu ở dưới cội cây, mặc dầu ở nơi đồng trống vẫn thường xuyên thốt lên lời cảm
hứng rằng: “Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!” Khi ấy, nhiều vị tỳ khưu đã đi đến gặp
đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi
đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đại đức Bhaddiya mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới
cội cây, mặc dầu ở nơi đồng trống vẫn thường xuyên thốt lên lời cảm hứng rằng:
“Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!” Bạch ngài, chắc chắn rằng đại đức Bhaddiya không
thỏa thích thực hành Phạm hạnh, hoặc là trong khi hồi tưởng lại chính sự khoái
lạc vương giả ấy trước đây, (vị ấy) mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội
cây, mặc dầu ở nơi đồng trống đã thường xuyên thốt lên lời cảm hứng rằng: “Ôi sự
an lạc! Ôi sự an lạc!”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo một vị tỳ khưu khác rằng:
- Này tỳ khưu, ngươi hãy nhân danh ta đi đến nói với tỳ khưu
Bhaddiya rằng: “Này đại đức Bhaddiya, bậc Đạo Sư cho gọi đại đức.”
- Bạch ngài, xin vâng.
Rồi vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn đã đi đến gặp đại đức
Bhaddiya, sau khi đến đã nói với đại đức Bhaddiya điều này:
- Này đại đức Bhaddiya, bậc Đạo Sư cho gọi đại đức.
[346] - Này đại đức, xin vâng.
Rồi đại đức Bhaddiya nghe theo vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế
tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn
đã nói với đại đức Bhaddiya đang ngồi một bên điều này:
- Này Bhaddiya, nghe nói ngươi mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới
cội cây, mặc dầu ở nơi đồng trống vẫn thường xuyên thốt lên lời cảm hứng rằng:
“Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!”
- Bạch ngài, đúng vậy.
- Này Bhaddiya, mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội cây, mặc
dầu ở nơi đồng trống, cảm nhận được lợi ích gì khiến ngươi thường xuyên thốt
lên lời cảm hứng: “Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!” vậy?
- Bạch ngài, trước đây khi con làm vua, mặc dầu có sự bảo vệ được
sắp đặt cẩn thận bên trong hậu cung, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận
bên ngoài hậu cung, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên trong thành
phố, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên ngoài thành phố, mặc dầu có
sự bảo vệ được sắp đặt cẩn thận bên trong xứ sở, mặc dầu có sự bảo vệ được sắp
đặt cẩn thận bên ngoài xứ sở, bạch ngài, trong khi được bảo vệ và được an toàn
như vậy, con đây sống vẫn cảm thấy sợ hãi, khiếp đảm, lo âu, hồi hộp. Bạch
ngài, thế mà giờ đây con chỉ một mình, mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới cội
cây, mặc dầu ở nơi đồng trống lại không sợ hãi, không khiếp đảm, không lo âu,
không hồi hộp, vô tư lự, điềm tĩnh, không lệ thuộc sự chăm sóc của người khác,
sống với tâm như loài thú rừng. Bạch ngài, mặc dầu ở trong rừng, mặc dầu ở dưới
cội cây, mặc dầu ở nơi đồng trống, con đây cảm nhận được sự lợi ích này nên thường
xuyên thốt lên lời cảm hứng rằng: “Ôi sự an lạc! Ôi sự an lạc!”
Sau đó, khi hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã
thốt lên lời cảm hứng này:
[347]
Sân hận không hiện hữu
trong tâm của người nào,
đã vượt qua như thế
khỏi hữu và phi hữu,
là người hết sợ hãi,
an lạc, không sầu muộn,
chư thiên không thành tựu
việc thấy được vị ấy.
[348] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự ở Anupiyā theo như ý thích
đã lên đường đi về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành ngài đã ngự đến
thành Kosambī. Tại nơi đó, trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện
Ghosita.
[349] Khi ấy, Devadatta trong lúc độc cư thiền tịnh đã có ý nghĩ
suy tầm như vầy sanh khởi: “Ta nên làm cho ai tin tưởng để khi người ấy đã đặt
niềm tin nơi ta rồi thì nhiều lợi lộc và vinh hiển có thể phát sanh?” Sau đó,
điều này đã khởi lên cho Devadatta: “Hoàng tử Ajātasattu này còn trẻ và có
tương lai rạng rỡ. Hay là ta nên làm cho hoàng tử Ajātasattu tin tưởng để khi vị
ấy đã đặt niềm tin nơi ta rồi thì nhiều lợi lộc và vinh hiển sẽ phát sanh?”
Sau đó, Devadatta đã thu xếp sàng tọa rồi cầm y bát đi đến thành
Rājagaha. Tuần tự, vị ấy đã đến được thành Rājagaha. Khi ấy, Devadatta đã thay
đổi hình dạng của mình và biến thành hình dạng đứa bé trai mình quấn đầy rắn xuất
hiện ở trên bắp vế của hoàng tử Ajātasattu. Khi ấy, hoàng tử Ajātasattuđã trở
nên sợ hãi, khiếp đảm, lo âu, hồi hộp. Rồi Devadatta đã nói với hoàng tử
Ajātasattu điều này:
- Hoàng tử, ngài sợ tôi hay sao?
- Vâng, ta sợ lắm. Ngươi là ai?
- Tôi là Devadatta.
- Thưa ngài, nếu ngươi là ngài đại đức Devadatta, xin hãy hiện ra
với hình dáng của chính ngài đi.
Sau đó, Devadatta đã thay đổi hình dạng đứa bé trai và hiện ra đứng
trước hoàng tử Ajātasattu có mang y hai lớp (saṅghāṭi) và y bát. Khi ấy, hoàng tử Ajātasattu vô
cùng ngưỡng mộ thần thông kỳ diệu này của Devadatta nên sáng chiều đã đi đến phục
vụ cùng với đoàn xe năm trăm chiếc và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm
phần cơm nấu với sữa được mang lại.
Khi ấy, Devadatta với tâm đã bị ám ảnh, đã bị chế ngự bởi lợi lộc,
vinh hiển, và danh vọng khiến điều tham muốn như vầy đã khởi lên: “Ta sẽ quản
trị hội chúng tỳ khưu.” Chính do sự sanh khởi của tâm, Devadatta đã mất đi thần
thông của mình.
[350] Vào lúc bấy giờ, thị giả của đại đức Mahāmoggallāna (Mục Kiền
Liên) tên là Kakudha con trai của Koḷiya vừa mới từ trần và tái sanh vào thân khác
do ý tạo. Vị ấy đạt được bản thể có hình dạng như là hai hay ba cánh đồng làng ở
xứ Magadha. Với sự thành tựu bản thể đó, vị ấy vẫn không hề làm tổn thương
chính mình hay người khác.
Khi ấy, thiên tử Kakudha đã đi đến gặp đại đức Mahāmoggallāna,
sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Mahāmoggallāna rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một
bên, thiên tử Kakudha đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
- Thưa ngài, Devadatta với tâm đã bị ám ảnh, đã bị chế ngự bởi lợi
lộc, vinh hiển, và danh vọng khiến điều tham muốn như vầy đã khởi lên: “Ta sẽ
quản trị hội chúng tỳ khưu.” Thưa ngài, chính do sự sanh khởi của tâm,
Devadatta đã mất đi thần thông của mình.
Thiên tử Kakudha đã nói lên điều ấy. Sau khi nói lên điều ấy, vị ấy
đã đảnh lễ đại đức Mahāmoggallāna, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biến mất
ngay tại chỗ ấy.
[351] Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn,
sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống
một bên, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, thị giả của con tên là Kakudha con trai dòng Koḷiya vừa mới từ trần và tái sanh vào thân
khác do ý tạo. Vị ấy đạt được bản thể có hình dạng như là hai hay ba cánh đồng
làng ở xứ Magadha. Với sự thành tựu bản thể đó, vị ấy vẫn không hề làm tổn
thương chính mình hay người khác. Bạch ngài, khi ấy thiên tử Kakudha đã đi đến
gặp con, sau khi đến đã đảnh lễ con rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên,
thiên tử Kakudha đã nói với con điều này: “Thưa ngài, Devadatta với tâm đã bị
ám ảnh, đã bị chế ngự bởi lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng khiến điều tham muốn
như vầy đã khởi lên: ‘Ta sẽ quản trị hội chúng tỳ khưu.’ Thưa ngài, chính do sự
sanh khởi của tâm, Devadatta đã mất đi thần thông của mình.” Thiên tử Kakudha
đã nói lên điều ấy. Sau khi nói lên điều ấy, vị ấy đã đảnh lễ con, hướng vai phải
nhiễu quanh, rồi biến mất ngay tại chỗ ấy.
- Này Moggallāna, có phải thiên tử Kakudha với ngươi có tâm hiểu
và biết (lẫn nhau) bằng tâm nên bất cứ điều gì thiên tử Kakudha nói (ngươi biết
được) tất cả điều ấy đều theo chính cách ấy, chứ không phải cách nào khác?
- Bạch ngài, thiên tử Kakudha với con có tâm hiểu và biết (lẫn
nhau) bằng tâm nên bất cứ điều gì thiên tử Kakudha nói (con biết được) tất cả
điều ấy đều theo chính cách ấy, chứ không phải cách nào khác.
- Này Moggallāna, hãy giữ kín lời nói này. Này Moggallāna, hãy giữ
kín lời nói này. Đã đến lúc kẻ rồ dại ấy tự chính mình sẽ làm bộc lộ bản thân.
[352] Này Moggallāna, có năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên
đời. Thế nào là năm? Này Moggallāna, ở đây có hạng đạo sư trong khi có giới
không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: “Ta có giới thanh tịnh” và “Giới của ta thanh
tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.” Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy:
“Ngài đạo sư này trong khi có giới không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có giới
thanh tịnh’ và ‘Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng
ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho
ông ta? Vả lại, ông ta được hài lòng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều gì ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về giới, và như vậy là vị
đạo sư mong đợi sự bảo vệ về giới từ các đệ tử.
[353] Này Moggallāna, còn có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư
trong khi có sự nuôi mạng không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: “Ta có sự nuôi mạng
thanh tịnh” và “Sự nuôi mạng của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.”
Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có sự nuôi mạng
không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự nuôi mạng thanh tịnh’ và ‘Sự nuôi mạng
của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư
sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho
ông ta? Vả lại, ông ta được hài lòng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều gì ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc nuôi mạng, và như
vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc nuôi mạng từ các đệ tử.
[354] Này Moggallāna, còn có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư
trong khi có sự thuyết pháp không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: “Ta có sự thuyết
pháp thanh tịnh” và “Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị
hoen ố.” Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có sự
thuyết pháp không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có sự thuyết pháp thanh tịnh’
và ‘Sự thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng
ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho
ông ta? Vả lại, ông ta được hài lòng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều gì ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về việc thuyết pháp, và
như vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về việc thuyết pháp từ các đệ tử.
[355] Này Moggallāna, còn có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư
trong khi có lối phân tích không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: “Ta có lối phân
tích thanh tịnh” và “Lối phân tích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen
ố.” Các đệ tử biết về chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có lối
phân tích không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: ‘Ta có lối phân tích thanh tịnh’ và
‘Lối phân tích của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta
nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho
ông ta? Vả lại, ông ta được hài lòng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều gì ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về lối giải thích, và như
vậy là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về lối giải thích từ các đệ tử.
[356] Này Moggallāna, còn có điều khác nữa, ở đây có hạng đạo sư
trong khi có tri kiến không thanh tịnh lại tỏ ra rằng: “Ta có tri kiến thanh tịnh”
và “Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.” Các đệ tử biết về
chính vị ấy như vầy: “Ngài đạo sư này trong khi có tri kiến không thanh tịnh lại
tỏ ra rằng: ‘Ta có tri kiến thanh tịnh’ và ‘Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sạch,
không bị hoen ố.’ Nếu chúng ta nói cho các cư sĩ, ông ta sẽ không hoan hỷ. Điều mà ông ta không hoan hỷ, tại sao chúng ta lại gây nên điều ấy cho
ông ta? Vả lại, ông ta được hài lòng với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh; điều gì ông ta sẽ làm, chính ông ta sẽ biết điều ấy.”
Này Moggallāna, như vậy là các đệ tử bảo vệ vị đạo sư về tri kiến, và như vậy
là vị đạo sư mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử.
Này Moggallāna, năm hạng đạo sư này đang hiện hữu ở trên đời.
[357] Và này Moggallāna, ta có giới thanh tịnh và biết rằng: “Ta
có giới thanh tịnh” và “Giới của ta thanh tịnh, trong sạch, không bị hoen ố.”
Các đệ tử không cần bảo vệ ta về giới, và ta cũng không mong đợi sự bảo vệ về
giới từ các đệ tử. Ta nuôi mạng thanh tịnh, …(như trên)… thuyết Pháp thanh tịnh,
…(như trên)… có lối phân tích thanh tịnh, …(như trên)… có tri kiến thanh tịnh
và biết rằng: “Ta có tri kiến thanh tịnh” và “Tri kiến của ta thanh tịnh, trong
sạch, không bị hoen ố.” Các đệ tử không cần bảo vệ ta về tri kiến, và ta cũng
không mong đợi sự bảo vệ về tri kiến từ các đệ tử.
[358] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại Kosambī theo như ý thích
đã lên đường du hành đi đến thành Rājagaha. Trong khi lần lượt du hành ngài đã
ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó, trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại
Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con
sóc.
[359] Khi ấy, nhiều vị tỳ khưu đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi
đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên,
các tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hoàng tử Ajātasattu sáng chiều đi đến phục vụ
Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, và vật cúng dường về thực phẩm là
năm trăm phần cơm nấu với sữa được mang lại.
- Này các tỳ khưu, chớ có ganh tỵ với Devadatta về lợi lộc, vinh
hiển, và danh vọng. Này các tỳ khưu, cho đến khi nào hoàng tử Ajātasattu còn sáng
chiều đi đến phục vụ Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm chiếc, và vật cúng dường
về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa còn được mang lại thì này các tỳ
khưu, việc suy giảm trong các thiện pháp là điều sẽ xảy đến cho Devadatta, chứ
không phải sự tiến triển.
Này các tỳ khưu, cũng giống như người ta làm vỡ túi mật ở mũi của
con chó dữ tợn; này các tỳ khưu, bởi vì như vậy con chó ấy sẽ trở nên dữ tợn
hơn trước. Tương tợ như thế, này các tỳ khưu, cho đến khi nào hoàng tử
Ajātasattu còn sáng chiều đi đến phục vụ Devadatta cùng với đoàn xe năm trăm
chiếc, và vật cúng dường về thực phẩm là năm trăm phần cơm nấu với sữa còn được
mang lại thì này các tỳ khưu, việc suy giảm trong các thiện pháp là điều sẽ xảy
đến cho Devadatta, chứ không phải sự tiến triển.
Này các tỳ khưu, lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại cho
Devadatta sự hư hỏng của bản thân; lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại
cho Devadatta sự tiêu hoại. Này các tỳ khưu, giống như cây chuối khi trổ quả
thì đưa đến sự hư hỏng của thân cây, khi trổ quả thì đưa đến sự tiêu hoại;
tương tợ như thế, lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự
hư hỏng của bản thân; lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại cho Devadatta
sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như cây tre khi ra hoa (phalaṃ deti)[2] thì đưa đến sự hư hỏng của thân
cây, khi ra hoa thì đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, lợi lộc, vinh hiển,
và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; lợi lộc, vinh hiển,
và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như cây sậy khi ra hoa (phalaṃ deti) thì đưa đến sự hư hỏng của thân cây,
khi ra hoa thì đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như thế, lợi lộc, vinh hiển, và
danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản thân; lợi lộc, vinh hiển,
và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
Này các tỳ khưu, giống như con lừa cái khi mang thai thì đưa đến
sự hư hỏng của bản thân, khi mang thai thì đưa đến sự tiêu hoại; tương tợ như
thế, lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự hư hỏng của bản
thân; lợi lộc, vinh hiển, và danh vọng đã đem lại cho Devadatta sự tiêu hoại.
[360]
Quả hại chết cây chuối,
hoa hại chết cây tre,
hoa hại chết cây sậy,
bào thai hại chết lừa;
tương tợ như thế ấy,
vinh quang giết kẻ ngu.
Dứt tụng phẩm thứ nhất
Xem Tụng phẩm thứ nhì - Xem tiếp Chương 8 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments