Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
05. Chương Các Tiểu Sự (Khuddakavatthukkhandhakaṃ)
1. Tụng phẩm thứ nhất và thứ nhì
[1] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư: Trong khi tắm.
[12] Đeo hoa tai. Đeo xâu chuỗi
[13] Việc để tóc dài. Việc chải tóc. v.v...
[15] Việc nhìn nét mặt ở gương soi, v.v... Việc thoa dầu khuôn mặt,
v.v...
[19] Việc xem lễ hội. Việc ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với
sự kéo dài-
[21] Thuyết giảng với giọng có âm điệu. Áo choàng có phủ lông ở
phía ngoài
[23] Việc thọ dụng xoài. v.v... Năm cách làm cho (trái cây) đúng
phép sa-môn.
[26] Chuyện tỳ khưu bị rắn cắn. Kinh Rắn Chúa
[28] Việc cắt bỏ dương vật
[29] Bình bát bằng gỗ đàn hương. Chuyện sáu vị giáo chủ
[31] Câu chuyện trưởng lão Piṇḍolabhāradvāja
[34] Giảng về bình bát. Vòng đế bình bát. Bảo quản và sử dụng
bình bát
[55] Việc sử dụng cán dao. Việc may y. Giảng về tấm y mẫu
[70] Cho phép túi đựng thuốc, dây mang vai, túi mang dép
[72] Việc lược nước. Đồ lược nước hai lớp. Lều chống muỗi
[78] Chuyện Jīvaka Komārabhacca. Giảng về đường kinh hành và nhà
tắm hơi
[90] Giảng về người không nên được đảnh lễ
[91] Trong nhà tắm hơi
[94] Giếng nước. Hồ nước tắm. Hồ trữ nước
[103] Việc lìa xa tọa cụ. Ngủ ở giường có rãi hoa
[106] Thảm len. Gối kê được rắc dầu thơm. Giá đỡ bình bát
[109] Việc sinh hoạt chung chạ như ăn, uống, ngủ, v.v...
[110] Câu chuyện Vaḍḍha Licchavī liên quan đến ngài Dabba Mallaputta
[112] Việc úp ngược bình bát
[116] Việc mở lại bình bát
[120] Câu chuyện vương tử Bodhi. Việc trải tấm thảm bằng vải
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương
Xá), Veḷuvana (Trúc lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ
khưu nhóm Lục Sư cọ xát cơ thể, luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào
thân cây trong lúc tắm. Dân chúng nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm, giống như những võ sĩ
đấu vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. ...(như trên)... Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội
chúng tỳ khưu lại và hỏi các vị tỳ khưu hỏi rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư cọ xát cơ thể,
luôn cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật
không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên
làm. Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm? Này các tỳ khưu, sự
việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên cọ xát cơ thể vào thân cây trong lúc
tắm; vị nào cọ xát thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[2] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cọ xát cơ thể, luôn
cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào trụ đá trong lúc tắm. Dân chúng phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào trụ đá trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu
vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại thoại rồi bảo các
tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên cọ xát cơ thể vào trụ đá trong lúc tắm;
vị nào cọ xát thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[3] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cọ xát cơ thể, luôn
cả bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà trong lúc tắm. Dân chúng
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại cọ xát cơ thể, luôn cả bắp
chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà trong lúc tắm, giống như những võ
sĩ đấu vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên cọ xát cơ thể vào tường nhà trong
lúc tắm; vị nào cọ xát thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[4] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục sư tắm (cọ xát) ở tấm gỗ
xẻ (aṭṭhāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. …(như trên) … Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên tắm (cọ xát) ở tấm gỗ xẻ; vị nào tắm
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[5] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với cây kỳ cọ
hình giống bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên tắm với cây kỳ cọ hình giống bàn
tay; vị nào tắm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[6] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với chuổi hột
chà lưng (kuruvindakasutti). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên tắm với chuổi hột chà lưng; vị nào tắm
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[7] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo vị khác kỳ cọ
theo cách dùng thân thể cọ xát lẫn nhau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bảo vị khác kỳ cọ theo cách dùng
thân thể cọ xát lẫn nhau; vị nào bảo làm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[8] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tắm với cây chà lưng
(mallaka). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên tắm với cây chà lưng; vị nào tắm thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[9] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ghẻ. Vị ấy không được
thoải mái khi không có cây chà lưng. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cây chà lưng chưa được chế biến đối
với vị bị bệnh.
[10] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ già cả yếu đuối không thể
kỳ cọ cơ thể của mình trong lúc tắm. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc việc dùng dây vải (ukkāsikaṃ).
[11] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ngần ngại lúc làm sạch phần
lưng. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dùng tay như thường lệ.
[12] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo hoa tai …(như
trên)… đeo hoa tai dạng chuổi, đeo xâu chuỗi ở cổ, đeo xâu chuỗi ở hông, đeo
vòng, đeo vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo hoa tai
…(như trên)… đeo hoa tai dạng chuổi, đeo dây chuổi ở cổ, đeo dây chuổi ở hông,
đeo vòng, đeo vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên đeo hoa tai, không nên đeo hoa tai dạng
chuổi, không nên đeo dây chuổi ở cổ, không nên đeo dây chuổi ở hông, không nên
đeo vòng, không nên đeo vòng ở ngực, không nên đeo vòng ở tay, không nên đeo nhẫn;
vị nào đeo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[13] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để tóc dài. Dân
chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên để tóc dài; vị nào để (tóc dài) thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (để tóc) hai tháng hoặc
(để dài) hai lóng tay.
[14] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chải tóc bằng lược,
chải tóc bằng vật giống hình mang rắn, chải tóc bằng tay xòe ra, chải tóc với
sáp ong, chải tóc với dầu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên chải tóc bằng lược, không nên chải
tóc bằng vật giống hình mang rắn, không nên chải tóc bằng tay xòe ra, không nên
chải tóc với sáp ong, không nên chải tóc với dầu nước; vị nào chải tóc thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[15] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhìn nét mặt ở
gương soi, và ở trong chậu nước nữa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên nhìn nét mặt ở gương soi hoặc ở
trong chậu nước; vị nào nhìn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[16] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở mặt. Vị ấy
đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, vết thương của tôi ra làm sao?
Các tỳ khưu đã trả lời như sau:
- Này đại đức, vết thương của ngài là như thế đó.
Vị ấy không tin. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, do nhân duyên bệnh ta cho phép nhìn nét mặt ở
gương soi hoặc ở trong chậu nước.
[17] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thoa dầu khuôn mặt,
xoa bóp khuôn mặt, thoa phấn khuôn mặt, tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở
thân thể, vẽ màu ở mặt, vẽ màu ở thân thể và ở mặt. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên thoa dầu khuôn mặt, không nên xoa
bóp khuôn mặt, không nên thoa phấn khuôn mặt, không nên tô điểm mặt bằng bột phấn
đỏ, không nên vẽ màu ở thân thể, không nên vẽ màu ở mặt, không nên vẽ màu ở
thân thể và ở mặt; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[18] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở mắt. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, do nhân duyên bệnh ta cho phép thoa dầu khuôn
mặt.
[19] Vào lúc bấy giờ, tại thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh
núi. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc
giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào
đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[20] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngâm nga Pháp theo
âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự
kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngâm nga Pháp theo âm điệu
ca hát với sự kéo dài?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi thuyết Pháp thoại, ngài đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga Pháp theo
âm điệu ca hát với sự kéo dài: Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu, luôn cả
những kẻ khác cũng bị say đắm trong âm điệu, hàng tại gia phàn nàn, trong khi
ra sức thể hiện âm điệu thiền định bị phân tán, điều cuối cùng là dân chúng thực
hành theo đường lối sai trái. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm
nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ khưu, không nên ngâm
nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[21] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại trong khi thuyết giảng
với giọng có âm điệu. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc thuyết giảng với giọng có âm
điệu.
[22] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc áo choàng có phủ
lông phía bên ngoài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên mặc áo choàng có phủ lông phía bên
ngoài; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[23] Vào lúc bấy giờ, trong khu vườn của đức vua Seniya Bimbisāra
xứ Magadha (Ma Kiệt Đà), xoài đang ra trái. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha
đã cho phép rằng:
- Hãy để các ngài đại đức thọ dụng xoài một cách thoải mái.
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã hái luôn cả xoài non rồi thọ thực. Sau
đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha muốn dùng xoài. Khi ấy, đức vua Seniya
Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho mọi người rằng:
- Này các khanh, hãy đi đến vườn và mang xoài lại.
- Tâu bệ hạ, xin vâng.
Những người ấy theo lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã
đi đến vườn và nói với người giữ vườn điều này:
- Này nhà ngươi, đức vua muốn dùng xoài. Nhà ngươi hãy dâng xoài.
- Các ngài ơi, không còn xoài nữa. Các tỳ khưu đã hái luôn cả
xoài non và thọ dụng.
Sau đó, những người ấy đã trình sự việc ấy lên đức vua Seniya
Bimbisāra xứ Magadha.
- Này các khanh, xoài đã được các ngài đại đức thọ dụng ngon
lành; tuy nhiên, sự tiết độ đã được đức Thế Tôn ngợi khen cơ mà!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ dụng xoài của đức vua không
biết tiết độ vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng xoài; vị nào thọ dụng thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[24] Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng
đến hội chúng của nhóm người nọ. Các miếng xoài đã được trộn vào trong món xúp.
Các tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta
cho phép (thọ dụng) xoài miếng.
[25] Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của
nhóm người nọ. Họ đã không biết để làm xoài thành miếng. Ở phòng ăn, họ đã dâng
các trái xoài hãy còn nguyên vẹn. Các tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta
cho phép thọ dụng trái cây đã được làm thành được phép đối với sa-môn theo năm
cách: đã được hoại bởi lửa, đã được hoại bởi dao, đã được hoại bởi móng tay,
không có hột, và hột đã được lấy ra là cách thứ năm. Này các tỳ khưu, ta cho
phép thọ dụng trái cây đã được làm thành được phép đối với sa-môn theo năm cách
này.
[26] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn và chết đi. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, chắc chắn là vị tỳ khưu ấy đã không rải tâm từ
đến bốn loài rắn chúa rồi. Này các tỳ khưu, bởi vì nếu vị tỳ khưu ấy rải tâm từ
đến bốn loài rắn chúa, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy dầu bị rắn cắn cũng không
thể nào chết được. Bốn loài rắn chúa ấy là các loài nào? - Loài rắn chúa
Virūpakkha, loài rắn chúa Erāpatha, loài rắn chúa Chabyāputta, loài rắn chúa Kaṇhāgotama.
Này các tỳ khưu, chắc chắn là tỳ khưu ấy đã không rải tâm từ đến bốn loài rắn
chúa này rồi. Này các tỳ khưu, bởi vì nếu vị tỳ khưu ấy rải tâm từ đến bốn loài
rắn chúa này, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy dầu bị rắn cắn cũng không thể nào
chết được. Này các tỳ khưu, ta cho phép rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này nhằm
mục đích gìn giữ bản thân, bảo vệ bản thân, và hộ trì bản thân. Và này các tỳ
khưu, nên thực hành như vầy:
[27]
“Tôi có tâm từ đối với các
Virūpakkha;
tôi có tâm từ đối với các
Erāpatha;
tôi có tâm từ đối với các
Chabyāputta;
và tôi có tâm từ đối với các
Kaṇhāgotamaka.
Tôi có tâm từ đối với các loài
không chân;
tôi có tâm từ đối với các loài
hai chân;
tôi có tâm từ đối với các loài
bốn chân;
tôi có tâm từ đối với các loài
nhiều chân.
Loài không chân đừng hãm hại
tôi;
loài hai chân đừng hãm hại
tôi;
loài bốn chân đừng hãm hại
tôi;
loài nhiều chân đừng hãm hại
tôi.
Hởi tất cả chúng sanh, tất cả
các sinh vật,
và hết thảy tất cả sanh linh,
xin tất cả hãy thấy được các
điều lành,
chớ để xảy đến bất cứ điều gì
xấu xa.
Đức Phật là vô lượng,
đức Pháp là vô lượng,
đức Tăng là vô lượng,
các loài bò sát (như là) các
loài rắn,
bọ cạp, rết, nhện, thằn lằn,
chuột là có hạn lượng.
Tôi đã thực hiện các sự bảo vệ,
tôi đã thực hiện sự hộ trì,
xin các sanh linh hãy tránh
xa.
Tôi đây đảnh lễ đức Thế Tôn,
đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng
Giác.
[28] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị dằn vặt bởi sự không được
thỏa thích nên đã cắt đi dương vật của bản thân. …(như trên)… Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, trong khi vật khác cần được đoạn trừ, kẻ rồ dại
ấy lại đoạn trừ vật khác. Này các tỳ khưu, không nên cắt đi dương vật của bản
thân; vị nào cắt thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[29] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú ở thành Rājagaha có được khúc gỗ
đàn hương thuộc loại đàn hương rất quý giá. Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha
đã khởi ý điều này: “Hay là ta cho đẻo thành cái bình bát với khúc gỗ đàn hương
này? Và phần gỗ vụn sẽ là sở hữu của ta, còn cái bát ta sẽ cho đi làm quà biếu.”
Sau đó, nhà đại phú thành Rājagaha đã cho đẻo thành cái bình bát
với khúc gỗ đàn hương ấy rồi buộc với một sợi dây và bảo treo ở trên ngọn một
cây tre, xong buộc nhiều cây tre tiếp nối nhau và nói như vầy:
- Vị sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là vị A-la-hán và lại có thần
thông nữa thì hãy lấy quà biếu chính là cái bình bát xuống.
[30] Khi ấy, Pūraṇa Kassapa đã đi đến gặp nhà đại phú thành
Rājagaha, sau khi đến đã nói với nhà đại phú thành Rājagaha điều này:
- Này gia chủ, chính ta là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa,
ngươi hãy dâng cái bình bát cho ta.
- Thưa ngài, nếu ngài là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa thì
ngài hãy lấy quà biếu chính là cái bình bát xuống đi.
Sau đó, Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccāyana,
Sañjaya Velaṭṭhaputta, Nigaṇṭha Nāṭaputta [1] đã đi đến gặp nhà đại phú thành
Rājagaha, sau khi đến đã nói với nhà đại phú thành Rājagaha điều này:
- Này gia chủ, chính ta là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa,
ngươi hãy dâng cái bình bát cho ta.
- Thưa ngài, nếu ngài là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa thì
ngài hãy lấy quà biếu chính là cái bình bát xuống đi.
[31] Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahāmoggallāna và đại đức Piṇḍolabhāradvāja
vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Rājagaha để khất thực. Đại
đức Piṇḍolabhāradvāja là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa. Đại đức
Mahāmoggallāna cũng là vị A-la-hán và lại có thần thông nữa. Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja
đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
- Này đại đức Mahāmoggallāna, hãy đi và lấy xuống cái bình bát
kia đi. Cái bình bát ấy là của đại đức.
Đại đức Mahāmoggallāna cũng đã nói với đại đức Piṇḍolabhāradvāja
điều này:
- Này đại đức Piṇḍolabhāradvāja, hãy đi và lấy xuống cái bình bát
kia đi. Cái bình bát ấy là của đại đức.
Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đã bay lên không trung, cầm lấy
cái bình bát, và đi (trên không) quanh thành Rājagaha ba vòng.
[32] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú thành Rājagaha cùng vợ và con
đang đứng ở tại nhà của họ, hai tay chắp lên, thành kính làm lễ rằng:
- Thưa ngài, xin ngài đại đức Bhāradvāja hãy ngự đến nhà của
chúng tôi ở ngay chỗ này.
Sau đó, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đã ngự đến tư gia của nhà đại
phú thành Rājagaha. Khi ấy, nhà đại phú thành Rājagaha đã nhận lấy cái bình bát
từ tay của đại đức Piṇḍolabhāradvāja, chất đầy vật thực cứng loại đắt giá rồi
dâng lại cho đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Khi ấy, đại đức Piṇḍolabhāradvāja đã nhận
lại bình bát ấy rồi đi về tu viện.
Dân chúng đã nghe rằng: “Nghe nói cái bình bát của nhà đại phú
thành Rājagaha đã được lấy xuống bởi ngài đại đức Piṇḍolabhāradvāja.” Và các
người ấy với âm thanh ồn ào ầm ĩ đã nối đuôi nhau đi phía sau đại đức Piṇḍolabhāradvāja.
Đức Thế Tôn đã nghe âm thanh ồn ào và ầm ĩ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda
rằng:
- Này Ānanda, âm thanh ồn ào và ầm ĩ ấy là gì vậy?
- Bạch ngài, cái bình bát của nhà đại phú thành Rājagaha đã được
lấy xuống bởi đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Bạch ngài, dân chúng đã nghe rằng:
“Nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Rājagaha đã được lấy xuống bởi
ngài đại đức Piṇḍolabhāradvāja.” Và bạch ngài, những người ấy với âm thanh ồn
ào và ầm ĩ đã nối đuôi nhau đi phía sau đại đức Piṇḍolabhāradvāja. Bạch Thế
Tôn, âm thanh ồn ào và ầm ĩ kia là chuyện ấy.
[33] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập
hội chúng tỳ khưu lại và hỏi đại đức Piṇḍolabhāradvāja rằng:
- Này Bhāradvāja, nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành
Rājagaha đã được nhà ngươi lấy xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Bhāradvāja, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp,
không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này Bhāradvāja, vì sao
ngươi lại để lộ pháp thượng nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông trước
hàng tại gia vì mục đích cái bình bát gỗ tầm thường? Này Bhāradvāja, giống như
người đàn bà cho xem chỗ kín vì mục đích của đồng xu tầm thường; này
Bhāradvāja, tương tợ như thế vì mục đích cái bình bát gỗ tầm thường, pháp thượng
nhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông đã bị ngươi để lộ ra trước hàng tại
gia. Này Bhāradvāja, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên để lộ pháp thượng nhân tức là sự kỳ
diệu của phép thần thông trước hàng tại gia; vị nào để lộ thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác). Này các tỳ khưu, hãy đập vỡ bình bát ấy, nghiền thành bột vụn, rồi
hãy dâng đến các tỳ khưu làm hương liệu của thuốc cao. Này các tỳ khưu, không
nên sử dụng bình bát bằng gỗ; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[34] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng những bình
bát loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng bình bát làm bằng vàng,
không nên sử dụng bình bát làm bằng bạc, không nên sử dụng bình bát làm bằng ngọc
ma-ni, không nên sử dụng bình bát làm bằng ngọc bích, không nên sử dụng bình
bát làm bằng pha-lê, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng đỏ, không nên sử
dụng bình bát làm bằng thủy tinh, không nên sử dụng bình bát làm bằng thiếc,
không nên sử dụng bình bát làm bằng chì, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng
thau; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho
phép hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất.
[35] Vào lúc bấy giờ, phần đáy bình bát bị trầy. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vòng đế bình bát.[2]
[36] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các vòng đế
bình bát loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các vòng đế bình bát loại đặc
biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho
phép hai loại vòng đế bình bát: loại làm bằng thiếc và loại làm bằng chì.
Những vòng đế dày cộm không giữ yên (bình bát). Các vị đã trình
việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đẻo gọt bớt.
Chúng bị lỏng chỏng. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt răng cá kiếm (cắm vào để giữ
bình bát).
[37] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các vòng đế
bình bát màu sặc sỡ: loại có tranh vẽ, loại có đắp hình nổi. Các vị đi đó đây
phô trương những thứ ấy ngay cả ở nơi đường phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các vòng đế bình bát màu sặc
sỡ: loại có tranh vẽ, loại có đắp hình nổi; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa
(tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép loại vòng đế bình thường.[3]
[38] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đem cất bình bát còn nước. Bình
bát bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đem cất bình bát còn nước; vị nào
đem cất thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đem cất bình
bát sau khi phơi nắng.
[39] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đem phơi nắng bình bát còn nước.
Bình bát có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đem phơi nắng bình bát còn nước; vị
nào đem phơi nắng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép
đem cất bình bát sau khi làm ráo nước và đem phơi nắng.
[40] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lưu trữ bình bát ở chỗ nóng.
Màu sắc của bình bát bị hoại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên lưu trữ bình bát ở chỗ nóng; vị nào
lưu trữ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đem cất
bình bát sau khi phơi nắng ở chỗ nóng trong chốc lát.
[41] Vào lúc bấy giờ, có nhiều bình bát được đặt xuống ở ngoài trời
không có vật kềm giữ. Các bình bát đã bị cơn gió xoáy làm va chạm lẫn nhau và bị
vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giá giữ bình bát.
[42] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở mép của
băng ghế gắn sát tường (miḍhanta). Bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở mép của băng ghế
gắn sát tường; vị nào đặt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[43] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở mép giường
đúc (paribhaṇḍanta). Bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở mép giường đúc;
vị nào đặt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[44] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lật úp bình bát ở trên mặt đất.
Vành miệng (bình bát) bị trầy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) miếng lót bằng cỏ.
Miếng lót bằng cỏ bị các con mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mảnh vải.
Mảnh vải bị các con mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bục kê bình bát.
Bình bát rơi từ bục kê bình bát và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giỏ mây chứa bình bát.
Ở trong giỏ mây chứa bình bát, bình bát bị trầy. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng bát.
Dây mang vai không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết
lại.
[45] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu treo bình bát ở chốt đinh gắn
vào tường và ở móc ngà voi. Bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên treo bình bát; vị nào treo thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[46] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở giường,
khi ngồi xuống không nhớ đã va chạm và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở giường; vị nào
đặt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[47] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở ghế, khi
ngồi xuống không nhớ đã va chạm và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở ghế; vị nào đặt
xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[48] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở trên bắp vế,
khi đứng dậy không nhớ khiến bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở trên bắp vế; vị
nào đặt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[49] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đặt bình bát xuống ở trên cái
dù. Cái dù bị bật lên vì gió xoáy khiến bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đặt bình bát xuống ở trên cái dù; vị
nào đặt xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[50] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mở cửa với bình bát ở tay. Cánh
cửa bật trở lại khiến bình bát bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên mở cửa với bình bát ở tay; vị nào mở
cửa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[51] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng
nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các tu sĩ ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng nước;
vị nào đi (khất thực như thế) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[52] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng
nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các tu sĩ ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng nước;
vị nào đi (khất thực như thế) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[53] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ chỉ sử dụng các vật bị
quăng bỏ. Vị ấy sử dụng bình bát (làm bằng) đầu lâu của người chết. Có phụ nữ nọ
nhìn thấy, hoảng sợ, đã mất tự chủ (thét lên):
- Gã này đúng là quỷ sứ khiến ta hết hồn!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại sử dụng bình bát (làm bằng) đầu
lâu của người chết, giống như kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng bình bát (làm bằng) đầu lâu
của người chết; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu,
không nên sinh tồn chỉ nhờ vào các vật bị quăng bỏ; vị nào sinh tồn (như thế)
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[54] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dùng bình bát để mang đi các đồ
thừa thải, xương xóc, và nước cặn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các vị sa-môn Thích tử này thọ thực trong chính cái vật chứa
rác của họ!
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên dùng bình bát để mang đi các đồ thừa
thải, xương xóc, hay nước cặn; vị nào mang đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật chứa rác.
[55] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xé (vải) bằng tay rồi may y. Y
không thẩm mỹ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có vỏ bọc.
[56] Vào lúc bấy giờ, dao nhỏ có cán đã được phát sanh đến hội
chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có cán.
[57] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các cán dao
loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các cán dao loại đặc biệt; vị
nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng
xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ,
làm bằng nhựa cây, làm bằng phiến đá, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.
[58] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu may y bằng lông gà và lạt tre.
Y được may vụng về. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) kim khâu.
Các kim khâu bị rỉ sét. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ống đựng kim khâu.
Ngay cả trong ống đựng, các kim khâu cũng bị rỉ sét. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phủ đầy bằng bột gây men.
Dù (chứa) trong bột gây men, các kim khâu cũng bị rỉ sét. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phủ đầy bằng bột lúa mạch.
Dù (chứa) trong bột lúa mạch, các kim khâu cũng bị rỉ sét. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép phủ đầy bằng bột đá.
Dù (chứa) trong bột đá, các kim khâu cũng bị rỉ sét. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trộn với mật và sáp ong.
Bột đá bị tách rời.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (trộn) bột đá với nhựa cây.
[59] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cắm cọc ở các nơi, buộc (vải) lại
với nhau rồi may y. Y có các góc không vuông vức. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tấm y mẫu (kaṭhina),
sau khi buộc dây của tấm y mẫu vào chỗ này chỗ kia rồi mới may y.
Các vị đã trải tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Tấm y mẫu bị rời
ra. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên căng tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng;
vị nào căng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Các vị đã trải tấm y mẫu ở trên mặt đất. Tấm y mẫu bị dơ. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thảm cỏ.
Đường viền của tấm y mẫu bị sờn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thiết lập đường biên tức là vòng
đai xung quanh.
Tấm y mẫu không đạt kích thước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vải) vào cọc căng, cây dùi,
que gỗ, dây buộc, chỉ buộc rồi mới may y.
Khoảng cách ở giữa các đoạn chỉ khâu không đều nhau. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc làm dấu bằng mực.
Các đường chỉ bị cong quẹo. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đường chỉ may tạm.
[60] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên tấm y mẫu với các bàn
chân chưa rửa. Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bước lên tấm y mẫu với các bàn chân
chưa rửa; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[61] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên tấm y mẫu với các bàn
chân đẫm nước. Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bước lên tấm y mẫu với các bàn chân
đẫm nước; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[62] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mang giày dép bước lên tấm y mẫu.
Tấm y mẫu bị dơ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên mang giày dép bước lên tấm y mẫu; vị
nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[63] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dùng ngón tay (cầm kim) khi may
y. Các ngón tay bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật bao ngón tay (khi
may vá).
[64] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các vật bao
ngón tay loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các vật bao ngón tay loại đặc
biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho
phép làm bằng xương, …(như trên)… làm bằng vỏ sò.
[65] Vào lúc bấy giờ, những kim khâu, những con dao nhỏ, luôn cả
những vật bao ngón tay bị thất lạc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa. Những vật
trên bị lẫn lộn trong thùng chứa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi để đựng vật bao ngón
tay.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết
lại.
[66] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi may y ở ngoài trời bị
mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà may y hoặc mái che
tạm để may y.
Nhà may y có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[67] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà may y.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[68] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi may y xong đã bỏ bê tấm
y mẫu ngay tại chỗ ấy rồi ra đi. Tấm y mẫu bị gặm nhấm bởi các con chuột và các
con mối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại.
Tấm y mẫu bị rời ra thành mảnh. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đặt cây gỗ hoặc tre ở bên trong rồi
cuốn lại.
Tấm y mẫu bị bung ra. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép dây buộc.
[69] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã đưa tấm y mẫu lên cất ở trên
vách tường hoặc ở trên cột nhà rồi ra đi. Tấm y mẫu rơi xuống và bị bung ra.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép treo lên ở chốt đinh gắn vào tường
hoặc ở móc ngà voi.
[70] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý
thích đã lên đường đi đến thành Vesāli. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã dùng
bát chứa đựng kim khâu, dao nhỏ, và thuốc men rồi ra đi. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng thuốc men.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết
lại.
[71] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã buộc đôi dép bằng dây
thắt lưng rồi đi vào làng để khất thực. Có nam cư sĩ nọ trong khi đảnh lễ vị tỳ
khưu ấy đã bị đôi dép chạm vào đầu. Vị tỳ khưu ấy đã bị xấu hổ. Sau đó, vị tỳ
khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng dép.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ kết
lại.
[72] Vào lúc bấy giờ, ở khoảng giữa cuộc hành trình nước không được
làm thành đúng phép (akappiyaṃ). Đồ lược nước không có. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước gắn ở gáo
múc.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bình đựng nước theo thông lệ.
[73] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đang đi đường xa trong xứ
Kosaka. Một tỳ khưu thường thực hành điều không tốt đẹp. Vị tỳ khưu thứ hai đã
nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.
Vị tỳ khưu ấy đã sanh ác cảm với vị kia (về sự phê bình). Sau đó,
vị tỳ khưu kia bị khó chịu vì khát nước đã nói với vị tỳ khưu đang mang mối ác
cảm điều này:
- Này đại đức, hãy đưa cho tôi đồ lược nước, tôi sẽ uống nước.
Vị tỳ khưu mang mối ác cảm đã không đưa cho. Vị tỳ khưu kia bị
khó chịu vì khát nước đã chết đi. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể
lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này đại đức, có phải đại đức đã không đưa cho khi được hỏi mượn
đồ lược nước?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn,…(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỳ khưu lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược
nước?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[74] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập
hội chúng tỳ khưu lại và hỏi vị tỳ khưu ấy rằng:
- Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đã không đưa cho khi được hỏi mượn
đồ lược nước, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại kia, thật không đúng đắn cho ngươi, thật không hợp
lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này
kẻ rồ dại kia, vì sao ngươi lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước vậy?
Này kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đi đường xa khi được (vị khác) hỏi
mượn đồ lược nước không thể không đưa cho; vị nào không đưa cho thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, vị không có đồ lược nước không nên đi đường
xa; vị nào đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Nếu không có đồ lược nước hoặc
bình đựng nước theo thông lệ, có thể chú nguyện chéo y hai lớp (saṅghāṭi): “Tôi
sẽ uống sau khi lược nước bằng vật này.”
[75] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến
thành Vesālī. Tại nơi đó trong xứ Vesālī, đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana (Đại
Lâm), giảng đường Kūṭāgāra.
[76] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thực hiện công trình (xây dựng)
mới. Đồ lược nước không làm trong (nước) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đồ lược nước hai lớp.
Đồ lược nước hai lớp không làm trong (nước) được. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bể lọc nước (ottharakaṃ).
[77] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị khuấy rối bởi các con muỗi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lều chống muỗi.
[78] Vào lúc bấy giờ, ở xứ Vesālī, sự luân phiên bữa ăn gồm các
thức ăn thượng hạng được thiết lập. Các tỳ khưu thọ dụng các thức ăn thượng hạng
nên cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh. Khi ấy, (thầy thuốc) Jīvaka
Komārabhacca đã đi đến Vesālī do công việc cần làm nào đó. Jīvaka Komārabhacca
đã thấy các tỳ khưu có cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh, sau khi thấy
đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở
một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn
điều này:
- Bạch ngài, hiện nay các tỳ khưu có cơ thể bị tiêu chảy và sanh
nhiều chứng bệnh. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn cho phép các tỳ khưu (sử
dụng) đường kinh hành và phòng tắm hơi; như thế, các tỳ khưu sẽ bớt bệnh hoạn.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được
đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài
Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn,
hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[79] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đường kinh hành và phòng
tắm hơi.
[80] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi kinh hành ở đường kinh hành
không bằng phẳng. Các bàn chân bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm cho bằng phẳng.
[81] Đường kinh hành có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên)
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[82] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi đi kinh hành ở đường
kinh hành bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay vịn ở đường kinh
hành.
[83] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi đi kinh hành ở ngoài
trời bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà đi kinh hành.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà đi kinh hành. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[84] Vào lúc bấy giờ, phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Phòng tắm hơi không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
Chân tường của phòng tắm hơi bị hư hỏng. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây mô tròn.
Phòng tắm hơi không có ống thông khói.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) ống thông khói.
[85] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu làm chỗ đốt lửa ở giữa phòng tắm
hơi có khuôn viên hẹp. Lối đi lại không có. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm chỗ đốt lửa ở một bên trong
phòng tắm hơi có khuôn viên hẹp, ở giữa (phòng tắm hơi) có khuôn viên rộng.
Trong phòng tắm hơi, ngọn lửa làm phỏng mặt (các tỳ khưu). …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đất sét (bôi) ở mặt.
Các vị dùng tay nhồi ướt đất sét. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) máng đựng đất sét.
Đất sét có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ủ (đất sét).
[86] Vào lúc bấy giờ, ở trong phòng tắm hơi ngọn lửa làm phỏng
thân thể (các tỳ khưu). …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép mang nước lại.
Các vị mang nước lại bằng nắp bình bát và bằng bình bát. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vại chứa nước (và) gáo
múc nước.
Phòng tắm hơi lợp cỏ không làm tiết ra mồ hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái rồi tô vữa bên trong
và bên ngoài.
Phòng tắm hơi bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền gạch,
nền đá, nền gỗ.
(Phòng tắm hơi) vẫn còn bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rửa sạch.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[87] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngồi xuống trên nền đất của
phòng tắm hơi, tay chân bị trầy trụa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ghế ngồi ở phòng tắm
hơi.
[88] Vào lúc bấy giờ, phòng tắm hơi không được rào lại. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào:
hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
Không có nhà kho chứa đồ (koṭṭhako). …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà kho chứa đồ.
Nhà kho chứa đồ có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nhà kho chứa đồ không có cửa. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
[89] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi ở nhà kho chứa đồ.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang
hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[90] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (đang) ở trần đảnh lễ vị ở trần,
(đang) ở trần đảnh lễ vị không ở trần, (đang) ở trần bảo vị (đang) ở trần đảnh
lễ, (đang) ở trần bảo vị không ở trần đảnh lễ, (đang) ở trần phục vụ vị ở trần,
(đang) ở trần bảo (người khác) phục vụ vị ở trần, (đang) ở trần dâng đồ cho vị ở
trần, thọ nhận (lúc đang) ở trần, nhai (lúc đang) ở trần, ăn (lúc đang) ở trần,
ngủ (lúc đang) ở trần, uống (lúc đang) ở trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, vị (đang) ở trần không nên đảnh lễ vị ở trần,
(đang) ở trần không nên được đảnh lễ, (đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh
lễ vị ở trần, (đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ, (đang) ở trần
không nên phục vụ vị ở trần, (đang) ở trần không nên bảo (vị khác) phục vụ,
(đang) ở trần không nên dâng đồ cho vị ở trần, không nên thọ nhận (lúc đang) ở
trần, không nên nhai (lúc đang) ở trần, không nên ăn (lúc đang) ở trần, không
nên ngủ (lúc đang) ở trần, không nên uống (lúc đang) ở trần; vị nào uống (lúc
đang ở trần) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[91] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để y xuống trên nền đất của
phòng tắm hơi. Y bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y
trong phòng tắm hơi.
Lúc trời mưa, mưa rơi ở y. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) gian nhà lớn ở phòng tắm
hơi.
Gian nhà lớn ở phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng …(như trên)…
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên) …
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[92] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong gian nhà lớn
của phòng tắm hơi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, …(như trên)…, sào máng y, dây treo y.
[93] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại khi làm công việc kỳ
cọ lưng ở trong phòng tắm hơi, ở trong nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại tấm choàng: tấm choàng ở
phòng tắm hơi, tấm choàng ở trong nước, và tấm choàng bằng vải.
[94] Vào lúc bấy giờ, trong phòng tắm hơi không có nước. Các vị
đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giếng nước.
Thành giếng bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại thành giếng:
thành giếng bằng gạch, thành giếng bằng đá, thành giếng bằng gỗ.
Giếng nước có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên. …(như trên) …
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[95] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu kéo nước lên bằng dây rừng, bằng
dây buộc thân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây thừng để kéo nước.
Hai bàn tay bị đau. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cần giọt, cần trục quay,
bánh xe ròng rọc.
Các thùng (kéo nước) bị bể nhiều. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại gàu (kéo nước): gàu bằng
thiếc, gàu bằng gỗ, loại có (gắn) các sợi da thuộc.
[96] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi kéo nước ở ngoài trời
bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) gian nhà ở giếng.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong gian nhà ở giếng. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[97] Vào lúc bấy giờ, giếng không được che đậy khiến rác cỏ, bụi
bặm, luôn cả vật dơ rơi vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nắp đậy.
[98] Vào lúc bấy giờ, vật chứa nước không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) máng đựng nước, chậu đựng
nước.
[99] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tắm ở nơi này nơi kia trong
khuôn viên tu viện. Tu viện trở nên lầy lội. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) hồ nước (để tắm).
Hồ tắm lại trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi tắm. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại rào chắn:
rào chắn bằng gạch, rào chắn bằng đá, rào chắn bằng gỗ.
Hồ tắm bị lầy lội. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền gạch,
nền đá, nền gỗ.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[100] Vào lúc bấy giờ, cơ thể của các tỳ khưu bị lạnh. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc làm ráo nước và lau khô cho
dù chỉ bằng miếng vải.
[101] Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ có ý định cho xây dựng hồ
trữ nước nhằm sự lợi ích của hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) hồ trữ nước.
Thành của hồ trữ nước bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại thành: thành bằng
gạch, thành bằng đá, thành bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nước trong hồ trữ nước bị ôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ống dẫn nước, ống tháo nước.
[102] Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ có ý định tự tay thực hiện
phòng tắm hơi có mái vòng cung (nillekhaṃ) nhằm sự lợi ích cho hội chúng tỳ
khưu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) phòng tắm hơi có mái
vòng cung.
[103] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lìa xa tọa cụ
trong bốn tháng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên lìa xa tọa cụ trong bốn tháng; vị
nào lìa xa thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[104] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nằm trên những chỗ
nằm có rãi hoa. Dân chúng trong khi dạo quanh tu viện nhìn thấy nên phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên nằm trên những chỗ nằm có rãi hoa; vị
nào nằm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[105] Vào lúc bấy giờ, dân chúng đi đến tu viện mang theo dầu
thơm và vòng hoa. Các tỳ khưu trong khi ngần ngại nên không thọ lãnh. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi nhận dầu thơm rồi thì in dấu
năm ngón tay lên cửa (kavāṭe pañcaṅgulikaṃ dātuṃ) và sau khi nhận hoa rồi thì
đem đặt ở một góc ở trong trú xá.
[106] Vào lúc bấy giờ, có tấm thảm len đã phát sanh đến hội
chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thảm len.
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý như vầy: “Thảm len nên được chú
nguyện để dùng riêng (adhiṭṭhātabbaṃ) hay là nên được chú nguyện để dùng chung
(vikappetabbaṃ)?” …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, thảm len không nên được chú nguyện để dùng
riêng, không nên được chú nguyện để dùng chung.
[107] Vào lúc bấy giờ, các
tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực (dựa vào) gối kê được rắc dầu thơm
(āsittakupadhāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên thọ thực (dựa vào) gối kê được rắc dầu
thơm; vị nào thọ thực thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[108] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Vị ấy trong khi
ăn không thể kềm giữ bình bát bằng tay được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) giá đỡ bình bát (maḷorikaṃ).
[109] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ăn chung trong một
đĩa, uống chung trong một cốc, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải,
nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Dân chúng phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên ăn chung trong một đĩa, không nên uống
chung trong một cốc, không nên nằm chung trên một giường, không nên nằm chung một
tấm trải, không nên nằm chung một tấm đắp, không nên nằm chung một tấm trải và
tấm đắp; vị nào nằm chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[110] Vào lúc bấy giờ, Vaḍḍha Licchavī là thân hữu của các tỳ
khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Khi ấy, Vaḍḍha Licchavī đã đi đến gặp các tỳ
khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu nhóm
Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài đại đức.
Khi được nói như vậy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã
không đáp lại.
Đến lần thứ nhì, Vaḍḍha Licchavī đã nói với các tỳ khưu nhóm
Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài đại đức.
Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không
đáp lại.
Đến lần thứ ba, Vaḍḍha Licchavī đã nói với các tỳ khưu nhóm
Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Tôi xin chào các ngài đại đức.
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không
đáp lại.
- Có phải tôi làm phật lòng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại
đức không nói chuyện với tôi?
- Này đạo hữu Vaḍḍha, bởi vì ngươi vẫn dửng dưng như thế trong
khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.
- Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì?
- Này đạo hữu Vaḍḍha, nếu ngươi chịu làm thì ngay trong ngày hôm
nay đức Thế Tôn có thể trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.
- Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì? Tôi có thể làm điều
gì?
- Này đạo hữu Vaḍḍha, hãy đi. Ngươi hãy đi đến gặp đức Thế Tôn,
sau khi đến hãy nói với đức Thế Tôn như vầy: “Bạch ngài, điều này là không đúng
đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có
tai họa, không có sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và
có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước
đã bùng cháy lên rồi; vợ con đã bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”
- Thưa các ngài đại đức, xin vâng.
Rồi Vaḍḍha Licchavī nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và
Bhummajaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Vaḍḍha Licchavī đã nói với đức Thế
Tôn điều này:
- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài,
chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có tai họa, không có sầu khổ thì
chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng
đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; vợ con đã
bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.
[111] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống
như điều vị Vaḍḍha này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn …(như trên)…
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống
như điều vị Vaḍḍha này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, các vị (dòng dõi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu
ngươi có làm, hãy nói: “Có làm;” nếu không làm, hãy nói: “Không làm.”
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra con không bao giờ thấy mình
là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
[112] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, chính vì điều này hội chúng hãy úp ngược bình
bát đối với Vaḍḍha Licchavī (tức là) hãy thực thi việc không cùng thọ hưởng với
hội chúng.
[113] Này các tỳ khưu, bình bát nên được úp ngược đối với nam cư
sĩ hội đủ tám điều kiện: Vị ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, ra sức
làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, ra sức làm cho các tỳ khưu không có
chỗ ngụ, vị mắng nhiếc nói xấu các tỳ khưu, chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ
khưu, vị phỉ báng đức Phật, vị phỉ báng đức Pháp, vị phỉ báng đức Tăng. Này các
tỳ khưu, ta cho phép úp ngược bình bát đối với nam cư sĩ hội đủ tám điều kiện
này.
[114] Và này các tỳ khưu, nên úp ngược (bình bát) như vầy: Hội
chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaḍḍha Licchavī
bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Nếu
là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên úp ngược bình bát đối với
Vaḍḍha Licchavī, (tức là) nên thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.
Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaḍḍha Licchavī
bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Hội
chúng úp ngược bình bát đối với Vaḍḍha Licchavī, (tức là) thực thi việc không
cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc úp ngược bình bát đối với
Vaḍḍha Licchavī, (tức là) thực thi việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin
im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Bình bát đã được hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavī, (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội
chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[115] Sau đó vào buổi sáng, đại đức Ānanda đã mặc y, cầm y bát,
đi đến tư gia của Vaḍḍha Licchavī, sau khi đến đã nói với Vaḍḍha Licchavī điều
này:
- Này đạo hữu Vaḍḍha, hội chúng đã úp ngược bình bát đối với
ngươi, ngươi là không cùng thọ hưởng với hội chúng.
Khi ấy, Vaḍḍha Licchavī (biết rằng): “Nghe nói hội chúng đã úp
ngược bình bát đối với ta, nghe nói ta là không cùng thọ hưởng với hội chúng”
nên đã choáng váng và ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, bạn bè thân hữu, thân
quyến ruột thịt của Vaḍḍha Licchavī đã nói với Vaḍḍha Licchavī rằng:
- Này đạo hữu Vaḍḍha, thôi đi. Chớ có than van, chớ có rên rỉ.
Chúng tôi sẽ làm cho đức Thế Tôn và hội chúng tỳ khưu hoan hỷ.
Sau đó, Vaḍḍha Licchavī tẩm ướt y phục và đầu tóc cùng với vợ
con, bạn bè thân hữu, và thân quyến ruột thịt đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau
khi đến đã đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói điều này:
- Bạch ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con khiến con trở nên đần độn,
ngu si, không có đạo đức như thế, là việc con đã bôi nhọ đại đức Dabba
Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch ngài, xin đức Thế
Tôn ghi nhận sự sai trái trong tội lỗi ấy của con đây hầu để ngăn ngừa trong
tương lai.
- Này đạo hữu Vaḍḍha, đúng như thế. Tội lỗi đã chiếm ngự lấy
ngươi khiến ngươi trở nên đần độn, ngu si, không có đạo đức như thế, là việc
ngươi đã bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có
nguyên cớ. Này đạo hữu Vaḍḍha, do việc ngươi đã thấy được sự sai trái trong tội
lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, chúng ta ghi nhận điều ấy cho ngươi. Này đạo hữu
Vaḍḍha, bởi vì điều ấy là sự tiến bộ trong Luật của bậc Thánh: “Người nào sau
khi thấy được sự sai trái trong tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ thực hành
sự ngăn ngừa trong tương lai.”
[116] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vì việc này hội chúng hãy mở bình bát đối với
Vaḍḍha Licchavī, hãy thực thi việc cùng thọ hưởng với hội chúng. Này các tỳ
khưu, bình bát nên được mở ra đối với nam cư sĩ hội đủ tám điều kiện: Vị không
ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, không ra sức làm cho các tỳ khưu
không được sự lợi ích, không ra sức làm cho các tỳ khưu không có chỗ ngụ, vị
không mắng nhiếc nói xấu các tỳ khưu, không chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ
khưu, không phỉ báng đức Phật, không phỉ báng đức Pháp, không phỉ báng đức
Tăng. Này các tỳ khưu, ta cho phép mở bình bát đối với nam cư sĩ hội đủ tám điều
kiện này.
[117] Và này các tỳ khưu, nên mở ra như vầy: Này các tỳ khưu, Vaḍḍha
Licchavī ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân
các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, bình bát đã được hội chúng úp ngược đối với con,
con là không cùng thọ hưởng với hội chúng. Bạch các ngài, con đây làm bổn phận
một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ con cầu
xin hội chúng việc mở bình bát.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[118] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát đã được
hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavī, (tức là) việc không cùng thọ hưởng
với hội chúng. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm
bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin hội chúng việc mở bình bát. Nếu là thời điểm
thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên mở bình bát đối với Vaḍḍha Licchavī, (tức
là) nên thực thi việc cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát đã được
hội chúng úp ngược đối với Vaḍḍha Licchavī, (tức là) việc không cùng thọ hưởng
với hội chúng. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm
bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin hội chúng việc mở bình bát. Hội chúng mở bình
bát đối với Vaḍḍha Licchavī (tức là) thực thi việc cùng thọ hưởng với hội
chúng. Đại đức nào đồng ý việc mở bình bát đối với Vaḍḍha Licchavī (tức là) việc
cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Bình bát đã được hội chúng mở ra đối với Vaḍḍha Licchavī (tức là)
việc cùng thọ hưởng với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội chúng đồng
ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[119] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Vesālī theo như ý
thích đã lên đường đi đến xứ Bhaggā. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến
xứ Bhaggā. Tại nơi đó ở xứ Bhaggā, đức Thế Tôn ngự tại Suṃsumāragira nơi vườn
nai trong khu rừng Bhesakaḷā.
[120] Vào lúc bấy giờ, lâu đài tên Kokanuda của vương tử Bodhi vừa
mới được xây dựng không bao lâu, chưa có sa-môn hoặc Bà-la-môn hay bất cứ người
nào vào cư ngụ. Khi ấy, vương tử Bodhi đã bảo chàng thanh niên con trai bà
Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy đi. Ngươi hãy đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến hãy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn nhân danh ta hỏi
thăm (đức Thế Tôn) có được ít bệnh, ít đau, thoải mái, khoẻ mạnh, sống an lạc
không (như vầy): “Bạch ngài, vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ở chân của đức
Thế Tôn, và hỏi thăm (ngài) có được ít bệnh, ít đau, thoải mái, khoẻ mạnh, sống
an lạc không?” Và ngươi hãy nói như vầy: “Bạch đức Thế Tôn, xin ngài cùng với hội
chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.”
- Thưa ngài, xin vâng.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi
đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã bày tỏ sự thân thiện đối với đức Thế
Tôn, sau khi trao đổi lời chào hỏi xã giao rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã
ngồi xuống một bên, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā đã nói với đức Thế Tôn
điều này:
- Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm
(ngài) có được ít bệnh, ít đau, thoải mái, khoẻ mạnh, sống an lạc không? Và nói
như vầy: “Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào
ngày mai của vương tử Bodhi.”
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, chàng thanh
niên con trai bà Sañjikā sau khi biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn đã từ chỗ
ngồi đứng dậy đi đến gặp vương tử Bodhi, sau khi đến đã nói với vương tử Bodhi
điều này:
- Thưa ngài, chúng tôi đã bạch ngài Gotama ấy với lời nói của
ngài là: “Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm (ngài) có
được ít bệnh, ít đau, thoải mái, khoẻ mạnh, sống an lạc không? Và nói như vầy:
‘Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai
của vương tử Bodhi.’” Và sa-môn Gotama đã nhận lời.
[121] Sau đó, khi trải qua đêm ấy vương tử Bodhi đã cho chuẩn bị
vật thực thượng hạng loại cứng loại mềm rồi ra lệnh trải các tấm vải trắng ở
lâu đài Kokanuda cho đến tận bậc cấp ở ngoài cùng, xong đã bảo chàng thanh niên
con trai bà Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy đi. Ngươi hãy đi đến gặp đức
Thế Tôn, sau khi đến hãy thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: “Bạch ngài,
đã đến giờ; bữa ăn đã chuẩn bị xong.”
- Thưa ngài, xin vâng.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi
đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ; bữa ăn đã chuẩn bị xong.
[122] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi
đi đến tư gia của vương tử Bodhi. Vào lúc bấy giờ, vương tử Bodhi đứng ở bên
ngoài cổng ra vào đang chờ đợi đức Thế Tôn. Rồi vương tử Bodhi đã nhìn thấy đức
Thế Tôn đang từ đàng xa đi lại, sau khi nhìn thấy vương tử Bodhi đã từ chỗ ấy
đi đến đảnh lễ đức Thế Tôn, sau khi tôn vinh đã đi đến lâu đài Kokanuda. Khi ấy,
đức Thế Tôn đã đứng lại cạnh bậc cấp ở ngoài cùng. Rồi vương tử Bodhi đã nói với
đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên các tấm vải. Bạch ngài,
xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi
ích và an vui lâu dài.
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, vương tử Bodhi đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên các tấm vải. Bạch ngài,
xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi
ích và an vui lâu dài.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã nhìn sang đại đức Ānanda. Rồi đại đức
Ānanda đã nói với vương tử Bodhi điều này:
- Thưa vương tử, xin hãy gấp các tấm vải lại. Đức Thế Tôn sẽ
không bước lên tấm thảm trải bằng vải. Đấng Như Lai có lòng thương tưởng đến
chúng sanh sau này.[4]
Sau đó, vương tử Bodhi đã bảo gấp lại các tấm vải và cho sắp đặt
chỗ ngồi ở phía trên của lâu đài Kokanuda. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bước lên lâu
đài Kokanuda và ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ
khưu.
Sau đó, vương tử Bodhi đã tự tay làm hài lòng, làm thỏa mãn hội
chúng tỳ khưu có đức Phật dẫn đầu bằng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm.
Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được rửa, vương tử
Bodhi đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích,
và tạo niềm phấn khởi cho vương tử Bodhi đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại
rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[123] Sau đó, nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đức Thế Tôn đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên bước lên những tấm thảm trải bằng vải;
vị nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[124] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ bị sẩy thai đã thỉnh
các tỳ khưu đến rồi trải ra tấm vải và đã nói điều này:
- Thưa các ngài, xin hãy bước lên tấm vải.
Các tỳ khưu ngần ngại không bước lên.
- Thưa các ngài, xin hãy bước lên tấm vải để đem lại sự may mắn.
Các tỳ khưu ngần ngại đã không bước lên.
Khi ấy, người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn
lại không bước lên tấm thảm trải bằng vải?
Các tỳ khưu đã nghe người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các gia chủ tin vào sự may mắn. Này các tỳ
khưu, ta cho phép bước lên tấm thảm trải bằng vải khi được thỉnh cầu để đem lại
sự may mắn.
[125] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại không bước lên tấm vải
chùi chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm vải chùi chân.
Dứt tụng phẩm thứ nhì
Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments