Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
05. Chương Các Tiểu Sự (Khuddakavatthukkhandhakaṃ)
2. Tụng phẩm thứ ba
Mục Lục
[126] Câu chuyện bà Visākhā mẹ của Migāra
[131] Chuyện liên quan đến ô dù
[135] Câu chuyện vị tỳ khưu mang cây gậy và sợi dây
[136] Đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Đồng ý về (việc sử dụng) dây
[144] Câu chuyện vị tỳ khưu có tật nhai lại. Nhặt thức ăn bị rơi
vãi
[146] Câu chuyện vị tỳ khưu có móng dài. Việc liên quan đến móng
(tay chân)
[149] Việc liên quan đến râu tóc
[157] Việc lấy ráy tai
[159] Việc tích trữ đồ vật làm bằng đồng
[160] Thuốc cao. Ngồi ôm đầu gối. Vải băng bó
[163] Việc không buộc dây thắt lưng. Các dây thắt lưng. Khóa thắt
lưng
[166] Hột nút, cái nơ buộc
[169] Sử dụng y phục của kẻ tại gia. Túi quàng ở hai vai
[172] Việc nhai gỗ chà răng. Điều lợi ích
[176] Việc đốt đám lửa lớn. Việc tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để
ngăn lửa
[178] Việc trèo lên cây
[180] Việc chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật
[181] Việc giải đoán điềm lành dữ . Kiến thức nhảm nhí. Việc hắt
hơi
[187] Việc ăn tỏi
[189] Liên quan đến nhà vệ sinh
[195] Hành động xấu xa của các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[196] Quy định về đồ vật bằng kim loại, bằng gỗ, và bằng gốm sứ
[197] Bài kệ tóm lược
Nội Dung
[126] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ngự tại xứ Bhaggā
theo như ý thích đã lên đường đi đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành,
ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi (Xá Vệ), đức Thế
Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Khi
ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và
cái chỗi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức
Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái chum, vật chà chân (bằng
đất nung), và cái chỗi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui
lâu dài.
Đức Thế Tôn đã thọ nhận các chum và cái chỗi. Đức Thế Tôn đã
không thọ nhận vật chà chân (bằng đất nung). Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức
tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp
thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[127] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái chum và cái chỗi.
Này các tỳ khưu, không nên sử dụng vật chà chân (bằng đất nung); vị nào sử dụng
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba vật
chà chân: cát, sỏi, và đá bọt biển.
[128] Khi ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái quạt và cái chỗi
quét bụi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi
xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức
Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái quạt và cái chỗi quét bụi
của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Đức Thế Tôn đã thọ nhận cái quạt và cái chỗi quét bụi. Khi ấy, đức
Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā
mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. …(như trên)… , hướng vai phải nhiễu quanh, rồi
ra đi.
[129] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết
Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái quạt và cái chỗi
quét bụi.
[130] Vào lúc bấy giờ, quạt đuổi muỗi đã được phát sanh đến hội
chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) quạt đuổi muỗi.
Quạt đuôi bò rừng đã được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng quạt đuôi bò rừng; vị nào sử
dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba
loại quạt: làm bằng vỏ cây, làm bằng một loại rễ cây có mùi thơm (usīramayaṃ),
làm bằng lông đuôi chim công.
[131] Vào lúc bấy giờ, ô dù đã được phát sanh đến hội chúng. Các
vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù.
[132] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đi lại
đó đây. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đã đi đến công viên cùng với nhiều tín
đồ của đạo lõa thể. Các tín đồ của đạo lõa thể đã nhìn thấy từ đàng xa các tỳ
khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đang đi lại, sau khi thấy đã nói với nam cư sĩ ấy điều
này:
- Này quý vị, các bậc khả kính kia của quý vị mang ô dù đi đến
kìa, giống như đám quan đại thần vậy.
- Này quý vị, các vị ấy không phải là các tỳ khưu, họ là các du
sĩ ngoại đạo.
- Là các tỳ khưu, không phải là các tỳ khưu. Những người ấy đã
tranh cãi.
Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi lại gần rồi biết được rõ ràng nên mới
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các ngài đại đức lại mang ô dù đi đó đây?
Các tỳ khưu đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng ô dù; vị nào sử dụng thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[133] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Vị ấy không có ô
dù không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù đối với tỳ khưu bị
bệnh.
[134] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Ô dù đã được đức
Thế Tôn cho phép đối với tỳ khưu bị bệnh, không cho đối với vị không bị bệnh” rồi
ngần ngại khi che ô dù ở trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu không bị bệnh che ô dù ở
trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện.
[135] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ buộc bình bát bằng sợi
dây treo ở cây gậy rồi đi ngang qua cổng của ngôi làng nọ vào lúc chiều tối.
Dân chúng (bàn bạc rằng): “Này các vị, gã trộm kia đang đi, gươm của gã lấp
lánh kìa” rồi đã đuổi theo, giữ lại, đến khi biết rõ, đã thả ra. Sau đó, vị tỳ
khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này đại đức, có phải đại đức mang theo gậy và dây?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu lại mang theo gậy và dây?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo
các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên mang theo gậy và dây; vị nào mang
theo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[136] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy
không thể đi lại đó đây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng)
gậy đến tỳ khưu bị bệnh.
[137] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh
ấy cần đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu
trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Bạch
các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[138] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự
đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội
chúng nên ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy).
Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự
đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy
đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về (việc sử
dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói
lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đã được hội chúng ban cho tỳ khưu
tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự
việc này là như vậy.”
[139] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có sợi dây
không thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng)
sợi dây đến tỳ khưu bị bệnh.
[140] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh
ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ
khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình
bát. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) sợi
dây.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[141] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội
chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) sợi dây. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội
chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) sợi dây đến tỳ khưu
tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội
chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) sợi dây. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc
sử dụng) sợi dây đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự
đồng ý về (việc sử dụng) sợi dây đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào
không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) sợi dây đã được hội chúng ban cho tỳ
khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận
sự việc này là như vậy.”
[142] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy
không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang bình bát. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng)
gậy và dây đến tỳ khưu bị bệnh.
Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần
đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng
thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó
đây, không có sợi dây không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội
chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[143] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm,
đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây
không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy
và dây. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng
ý về (việc sử dụng) gậy và dây đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên
(như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây
không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy
và dây. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây đến tỳ khưu
tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy
và dây đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói
lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây đã được hội chúng ban cho
tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi
nhận sự việc này là như vậy.”
[144] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có tật nhai lại thức ăn.
Vị ấy nhai đi nhai lại (thức ăn) rồi nuốt xuống. Các tỳ khưu phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vị tỳ khưu này ăn vật thực lúc sái thời.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy đã bị sanh vào giống trâu bò trước
đây không lâu. Này các tỳ khưu, ta cho phép việc nhai lại đối với vị có tật
nhai lại. Và này các tỳ khưu, sau khi ợ lên ở cửa miệng (vật đã ăn vào) không
nên nuốt xuống; vị nào nuốt xuống thì nên được hành xử theo Pháp.[5]
[145] Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của
nhóm người nọ. Nhiều hột cơm đã bị rơi vãi trong phòng ăn. Dân chúng phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử khi được dâng cơm lại không thọ
lãnh một cách thận trọng, vì mỗi một hột cơm được tạo nên bởi trăm công sức?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vật nào bị rơi xuống trong khi được dâng cúng
ta, cho phép tự thân nhặt lên và thọ dụng vật ấy. Điều ấy là lý do của điều gì?
Này các tỳ khưu, bởi vì vật ấy đã được các thí chủ bố thí.
[146] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực với các móng
được để dài . Có người đàn bà nọ đã nhìn thấy rồi nói với vị tỳ khưu ấy điều
này:
- Ngài ơi, hãy đến và thực hiện việc lứa đôi đi.
- Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.
- Ngài ơi, nếu ngài không thực hiện, giờ đây tôi sẽ cào cấu khắp
mình mẩy bằng các móng tay của tôi rồi la lên: “Tỳ khưu này xúc phạm tôi.”
- Này chị gái, cô nên biết điều.
Khi ấy, người đàn bà ấy đã cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng
tay của mình rồi la lên: “Tỳ khưu này xúc phạm tôi.” Dân chúng đã chạy lại và bắt
giữ vị tỳ khưu ấy. Rồi những người ấy đã nhìn thấy da và máu ở móng tay của người
đàn bà ấy, sau khi nhìn thấy (biết được rằng): “Hành động này là của chính người
đàn bà này, vị tỳ khưu không phải là người làm” rồi đã thả vị tỳ khưu ấy ra.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
- Này đại đức, có phải đại đức đã để dài các móng?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu lại để dài các móng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, các móng không nên để dài; vị nào để dài thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[147] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xé móng bằng móng tay, cắn
móng bằng miệng, mài móng ở tường. Các ngón bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc cắt móng.
Các vị cắt móng làm chảy máu. Các ngón bị đau. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt móng đến sát phần thịt.
[148] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo trau chuốt hai
mươi (móng tay và chân). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bảo trau chuốt hai mươi (móng tay và
chân); vị nào bảo trau chuốt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta
cho phép lấy đất ra (từ các móng).
[149] Vào lúc bấy giờ, tóc của các tỳ khưu bị dài. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có khả năng để xuống tóc cho nhau
không?
- Bạch Thế Tôn, có khả năng,
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội
chúng tỳ khưu lại …(như trên)… đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao cạo, đá mài dao cạo,
bao đựng dao cạo, miếng vải len, tất cả vật dụng liên quan đến dao cạo.
[150] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tỉa râu, để râu
dài ra, để chòm râu dưới cằm, để râu thành bốn góc, tạo dáng lông ngực, tạo
dáng lông bụng, làm đứng giống ngà voi, cạo lông ở chỗ kín.[6] Dân chúng phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên tỉa râu, không nên để râu dài ra,
không nên để chòm râu dưới cằm, không nên để râu thành bốn góc, không nên tạo
dáng lông ngực, không nên tạo dáng lông bụng, không nên làm đứng giống ngà voi,
không nên cạo lông ở chỗ kín; vị nào cạo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[151] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở chỗ kín.
Thuốc không thể dính vào. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cạo lông ở chỗ kín do duyên cớ bệnh.
[152] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo cắt tóc bằng
kéo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bảo cắt tóc bằng kéo; vị nào bảo cắt
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[153] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở trên đầu,
không thể xuống tóc bằng dao cạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép bảo cắt tóc bằng kéo vì lý do bị bệnh.
[154] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để lông mũi dài. Dân chúng
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên để lông mũi dài; vị nào để thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[155] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lấy lông mũi ra với mảnh sành
hoặc bằng sáp ong. Hai lỗ mũi bị đau. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái nhíp (nhổ lông).
[156] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo nhổ tóc bạc.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên bảo nhổ tóc bạc; vị nào bảo nhổ thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[157] Vào lúc bấy giờ, các lỗ tai của vị tỳ khưu nọ bị các ráy
tai che bít. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lấy ráy tai.
[158] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các đồ lấy
ráy tai loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các đồ lấy ráy tai loại đặc
biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho
phép các đồ lấy ráy tay làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng
sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng phiến đá, làm bằng
đồng, làm bằng vỏ sò.
[159] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tích trữ nhiều đồ
vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Dân chúng trong khi dạo
quanh tu viện nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều đồ vật làm bằng
đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ giống như nhà buôn bán đồ đồng vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên tích trữ đồ vật làm bằng đồng thau
và đồ vật làm bằng đồng đỏ; vị nào tích trữ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[160] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại (sử dụng) thuốc cao,
que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, cây dùi (bandhanamattaṃ). Các vị đã trình sự
việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc
cao, đồ lấy ráy tai, và cây dùi.
[161] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ôm đầu gối bằng
y hai lớp. Các lớp vải của y hai lớp bị hư hoại. Các vị đã trình sự việc ấy lên
đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên ngồi ôm đầu gối bằng y hai lớp; vị
nào ngồi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[162] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Không có vải
băng bó, vị ấy không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải băng bó.
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vải băng bó nên được thực
hiện cách nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khung dệt, con thoi, sợi
dệt, kim dệt, và các vật dụng của khung dệt.
[163] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ không buộc dây thắt lưng
đã đi vào làng để khất thực. Ở trên đường đi, y nội (antaravāsaka) của vị ấy bị
tuột xuống. Dân chúng nhìn thấy đã kêu ồ lên. Vị tỳ khưu đã bị xấu hổ. Sau đó,
vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, vị không buộc dây thắt lưng không nên đi vào
làng; vị nào đi vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép
dây thắt lưng.
[164] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các dây thắt
lưng loại đặc biệt: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống hình đầu rắn nước, loại
có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)…Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các dây thắt lưng loại đặc
biệt: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống hình đầu rắn nước, loại có bện cái
trống nhỏ, loại giống như dây xích; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hai loại dây thắt lưng: loại bằng vải,
và loại hai đầu được thắt lại.
Các mép của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) loại có bện cái trống nhỏ,
loại giống như dây xích.
Đầu chóp của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu tròn (hai đầu chóp), thắt nút
(hai đầu chóp).
Hai đầu chóp của dây thắt lưng đã khâu lại bị sờn …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khóa thắt lưng.
[165] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng những loại
khóa thắt lưng đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng những loại khóa thắt lưng đặc
biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho
phép những loại khóa thắt lưng làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng,
làm bằng sậy, làm bằng tre, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi chỉ.
[166] Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda đắp các y hai lớp mỏng nhẹ
đã đi vào làng để khất thực. Các y hai lớp của vị ấy đã bị cơn gió xoáy tốc
lên. Sau đó, đại đức Ānanda đã đi về lại tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ
khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút, cái nơ buộc.
[167] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng những hột
nút đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên sử dụng những hột nút đặc biệt; vị
nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng
xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ,
làm bằng nhựa cây, làm bằng phiến đá, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi
chỉ.
[168] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cài hột nút, cài cái nơ buộc ở
trên y. Y bị sờn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút hình dẹp, cái nơ
buộc hình dẹp.
Các vị cài hột nút hình dẹp, cài cái nơ buộc hình dẹp ở góc chéo
(của y). Phần giữa bị mở ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép cài hột nút hình dẹp ở góc chéo (của
y), cài cái nơ buộc hình dẹp sau khi lùi vào bảy hoặc tám lóng tay.
[169] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc vải lót trong
của người tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở
bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê
bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên mặc vải lót trong của người tại gia:
loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải
có tua, loại vải thật dài; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[170] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm loại vải
choàng bên ngoài của người tại gia. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên trùm loại vải choàng bên ngoài của
người tại gia; vị nào trùm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[171] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc váy (saṃvelliyaṃ).
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên mặc váy; vị nào mặc thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[172] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo túi quàng ở
hai vai. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đeo túi quàng ở hai vai; vị nào đeo
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép túi đeo một bên
vai, túi hai người xách, vật đội trên đầu, vật mang ở vai, vật mang ở hông, vật
được treo lên.
[173] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không nhai gỗ chà răng
(dantakaṭṭhaṃ). Miệng trở nên có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai
gỗ chà răng: không có ích lợi cho mắt, miệng trở nên có mùi hôi, vị giác không
tinh tế, mật và đờm che lấp thức ăn, vị ấy không hứng thú với thức ăn. Này các
tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà
răng: có ích lợi cho mắt, miệng không có mùi hôi, vị giác được tinh tế, mật và
đờm che không che lấp thức ăn, vị ấy hứng thú với thức ăn. Này các tỳ khưu, đây
là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng.
[174] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhai gỗ chà răng
loại dài. Các vị còn đánh các sa di bằng chính những cây gỗ ấy. Các vị đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng loại dài; vị nào
nhai thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng
dài tối đa tám ngón tay và không nên đánh sa di bằng cây gỗ ấy; vị nào đánh thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[175] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi nhai cây gỗ chà
răng quá ngắn nên bị vướng ở cổ họng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng quá ngắn; vị nào
nhai thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng ngắn
tối thiểu bốn ngón tay.
[176] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đốt đám lửa lớn.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như thợ đốt lò vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên đốt đám lửa lớn; vị nào đốt thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[177] Vào lúc bấy giờ, các tu viện có cỏ rậm rạp. Trong khi đám lửa
lớn phát cháy, các tu viện cũng bắt lửa. Các tỳ khưu ngần ngại không tạo nên ngọn
lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, khi đám lửa lớn phát cháy ta cho phép tạo nên
ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ.
[178] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trèo lên cây, chuyền
từ cây này sang cây khác. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như loài khỉ vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên trèo lên cây; vị nào trèo lên thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[179] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đang đi đến thành
Sāvatthi trong xứ sở Kosala giữa đường đã bị voi rượt đuổi. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy
đã chạy đến gần gốc cây trong lúc ngần ngại đã không trèo lên cây. Con voi ấy
đã đi sang hướng khác. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại
sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trèo lên cây với tầm cao của con người
khi có việc cần làm, và đến tầm cao cần thiết trong những lúc hiểm nguy.
[180] Vào lúc bấy giờ, hai tỳ khưu tên Meṭṭhakokuṭṭha[7] là hai
anh em xuất thân dòng dõi Bà-la-môn có lời nói nhã nhặn với âm điệu ngọt ngào.
Họ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống
ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều
này:
- Bạch ngài, hiện nay các tỳ khưu có tên gọi khác nhau, có dòng
dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy
đang làm hỏng lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch
ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật
(chandaso).
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này những kẻ rồ dại kia, vì sao các ngươi lại nói như vầy: “Bạch
ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật”?
Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa
có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật
sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này
các tỳ khưu, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của
chính bản thân (sakāya niruttiyā).[8]
[181] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập việc giải
đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai …(như trên)… Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, kẻ chuyên chú trong việc giải đoán điềm lành dữ
có thể đạt được sự tiến triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh trong Pháp và Luật
này không?
- Bạch ngài, không có điều ấy.
- Hoặc vị chuyên chú trong Pháp và Luật này có thể học tập việc
giải đoán điềm lành dữ không?
- Bạch ngài, không có điều ấy.
- Này các tỳ khưu, không nên học tập việc giải đoán điềm lành dữ;
vị nào học tập thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[182] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy việc giải đoán
điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên dạy việc giải đoán điềm lành dữ; vị
nào dạy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[183] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập kiến thức
nhảm nhí. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên học tập kiến thức nhảm nhí; vị nào học
tập thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[184] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm
nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên dạy kiến thức nhảm nhí; vị nào dạy
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[185] Vào lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn trong lúc giảng Pháp giữa
hội chúng đông đảo vây quanh đã hắt hơi. Các tỳ khưu đã nói lớn tiếng rằng: “Bạch
ngài, mong rằng đức Thế Tôn sống thọ, mong rằng đấng Thiện Thệ sống thọ.” Âm
thanh ấy đã làm gián đoạn buổi giảng Pháp. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, khi hắt hơi mà được nói rằng: “Mong rằng người
sẽ sống thọ,” do duyên ấy có thể sống thọ hay có thể chết đi?
- Bạch ngài, không có điều ấy.
- Này các tỳ khưu, khi (ai đó) hắt hơi không nên nói rằng: “Mong
rằng người sẽ sống thọ.” Vị nào nói thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[186] Vào lúc bấy giờ, khi các tỳ khưu hắt hơi, dân chúng nói rằng:
- Thưa ngài, mong rằng ngài sẽ sống thọ.
Các tỳ khưu ngần ngại không đáp lại. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử khi được nói rằng: “Thưa ngài, mong
rằng ngài sẽ sống thọ” lại không đáp lời?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, những người tại gia mong điều tốt lành. Này
các tỳ khưu, khi được nói rằng: “Thưa ngài, mong rằng ngài sẽ sống thọ,” ta cho
phép đáp lại người tại gia rằng: “Mong rằng người sẽ sống lâu.”
[187] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngồi giảng Pháp có hội
chúng đông đảo vây quanh. Có vị tỳ khưu nọ vừa mới nhai tỏi. Và vị ấy đã ngồi ở
một chỗ riêng biệt (nghĩ rằng): “Chớ để các tỳ khưu bị khuấy rối.” Đức Thế Tôn
đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt, sau khi nhìn thấy ngài đã
hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt vậy?
- Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy vừa mới nhai tỏi. Và vị ấy (nghĩ rằng):
“Chớ để các tỳ khưu bị khuấy rối” nên đã ngồi ở một chỗ riêng biệt.
- Này các tỳ khưu, sau khi ăn một vật lại bị loại ra khỏi bài giảng
Pháp như thế này thì vị tỳ khưu có nên nhai vật ấy không?
- Bạch ngài, điều ấy không nên.
- Này các tỳ khưu, không nên nhai tỏi; vị nào nhai thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[188] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta bị bệnh đau bụng gió.
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đại đức Sāriputta, sau khi đến đã
nói với đại đức Sāriputta điều
- Này đại đức Sāriputta, trước đây khi bị bệnh đau bụng gió, đại
đức được dễ chịu nhờ vật gì?
- Này đại đức, đối với tôi nhờ tỏi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép nhai tỏi do duyên cớ bệnh.
[189] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tiểu tiện đó đây trong tu viện.
Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tiểu tiện ở một khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước tiểu.
Các vị khi tiểu tiện ngồi xuống một cách khó khăn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục tiểu tiện.
Bục tiểu tiện ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi tiểu tiện.
…(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại rào chắn:
rào chắn bằng gạch, rào chắn bằng đá, rào chắn bằng gỗ.
Lu nước tiểu không được đậy lại nên có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[190] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đại tiện đó đây trong tu viện.
Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đại tiện ở một khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hố tiêu.
Thành hố tiêu bị sụp xuống. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Hố tiêu có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Ngồi ở phía trong, các vị bị té trong khi đại tiện. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây bằng phẳng, làm cái lỗ ở giữa
để đại tiện.
Các vị khi đại tiện ngồi xuống một cách khó khăn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục đại tiện.
Các vị tiểu tiện ra ở bên ngoài. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) rãnh dẫn nước tiểu.
Gỗ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gỗ chùi.
Thùng chứa đồ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa đồ chùi.
Hố phân không được đậy lại nên có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[191] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trong khi đại tiện ở ngoài
trời bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà tiêu.
Nhà tiêu không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà tiêu. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[192] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ già yếu đại tiện xong
trong khi đứng dậy bị té. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế
tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay vịn.
[193] Vào lúc bấy giờ, nhà tiêu không có rào chắn. Các vị tỳ khưu
ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại rào chắn:
rào chắn bằng gạch, rào chắn bằng đá, rào chắn bằng gỗ.
[194] Không có nhà kho chứa đồ. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà kho chứa đồ.
Nhà kho chứa đồ có nền thấp …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền
móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn trong khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng
gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). …(như trên) …
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nhà kho chứa đồ không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh
xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ
dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi ở nhà kho chứa đồ. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép che kín mái và thực hiện việc tô vữa
bên trong và bên ngoài, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang
hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải
trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát lên.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
Lu nước rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước rửa.
Gáo múc nước để rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gáo múc nước để rửa.
Các vị khi rửa ngồi xuống một cách khó khăn . …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bục ngồi rửa.
Bục ngồi rửa ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi rửa. …(như
trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại rào chắn:
rào chắn bằng gạch, rào chắn bằng đá, rào chắn bằng gỗ.
Lu nước rửa không được đậy lại nên rác cỏ và bụi bặm luôn cả vật
dơ rơi vào. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[195] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư hành xử sai nguyên
tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc
bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết
lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác
làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo
kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc
bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực.
Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai
mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực
cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ
gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô
gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống
chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm
chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ
ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy
múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn,
vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn,
vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn,
vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn,
vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười
ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng
tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi
trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ
chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay
gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố
chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi
ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước
voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ
vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi
mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ
hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, không nên thực hiện các loại hành động sai
nguyên tắc; vị nào thực hiện thì nên được hành xử theo Pháp.
[196] Vào lúc bấy giờ, khi đại đức Uruvelakassapa xuất gia, nhiều
đồ vật bằng kim loại, đồ vật bằng gỗ, đồ vật bằng gốm sứ đã phát sanh đến hội
chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý rằng: “Đồ vật nào bằng kim loại đã được đức
Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gỗ đã được đức
Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gốm sứ đã được
đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn
nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả đồ vật bằng kim loại ngoại
trừ vũ khí, tất cả đồ vật bằng gỗ ngoại trừ ghế cao (āsandi), ghế nệm lông thú
(pallaṅka), bình bát bằng gỗ, giày dép bằng gỗ, tất cả đồ vật bằng gốm sứ ngoại
trừ đồ chà chân và loại lu lớn.
Chương các Tiểu Sự là chương
thứ năm
Tóm lược chương này:
[197]
Ở thân cây, trụ đá,
và ở trên tường nhà,
gỗ xẻ, cây kỳ cọ,
chuổi hột, (cọ) lẫn nhau,
cây chà lưng, bệnh ghẻ,
và có vị già cả,
dùng tay như lệ thường.
Hoa tai, hoa dạng chuỗi,
không mang dây chuyền cổ,
hông, vòng, vòng ở thân,
vòng ở tay, đeo nhẫn,
tóc dài, (dùng) lược chải,
vật đầu rắn, bàn tay,
(thoa) sáp ong, dầu nước,
giương soi, và chậu nước,
(thoa) dầu, và xoa bóp,
thoa phấn, rồi tô điểm
vẽ màu ở thân hình,
và tô màu ở mặt,
rồi ở cả hai nơi,
bệnh tật ở con mắt,
và ở trên đỉnh núi,
sự kéo dài, âm điệu,
(áo khoác) ở bên ngoài.
Với các miếng xoài nhỏ,
con rắn, vị cắt đi,
và khúc gỗ đàn hương,
các vòng đế đặc biệt,
bằng vàng, bị dày cộm,
bị lỏng chỏng, nhiều loại,
hư hỏng, có mùi hôi,
phơi nắng, đã bị vỡ,
ở mép ghế, giường đúc,
cỏ, miếng vải, bục kê,
và ở trong giỏ mây,
túi bát, dây đeo vai,
như vậy dây bằng vải,
trên tường, và trên giường,
trên ghế, trên bắp vế,
trên cái dù, mở cửa.
Bầu đựng nước, cái hũ,
cái sọ từ thây người,
vật chứa các đồ thừa,
vị xé, dao có cán,
bằng vàng, lông, lạt tre,
và ống đựng kim khâu,
men, lúa mạch, bột đá,
mật, sáp ong, hộp nhỏ.
Không vuông, chỗ không phẳng,
trên mặt đất, bị thụng,
và không đạt kích thước,
dấu mực, chỉ làm dấu,
chân chưa rửa, đẫm nước,
dép, và đồ bọc ngón,
thùng chứa đồ, bao đựng
dây mang vai, chỉ kết.
Ở ngoài trời, nền thấp,
nền móng, bị khó khăn,
vị bị té, rác cỏ,
tô vữa trong và ngoài,
màu trắng, và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
vị lãnh đạo cho phép.
Họ bỏ bê ra đi,
khung y rời thành miếng,
bị bung ra, trên tường,
mang theo bằng bình bát,
túi đựng, chỉ buộc lại,
và buộc lại đôi dép,
và cái túi đựng dép,
và dây vải mang vai.
Nước uống chưa được phép,
trên đường, đồ lược nước,
miếng vải, theo thói thường,
có hai vị tỳ khưu,
vị Ẩn Sĩ đã đến
thành phố Vesālī,
đồ lọc có hai lớp,
bể lọc nước, nơi ấy
ngài cho phép đồ lọc.
Các con muỗi, vật ngon,
nhiều bệnh, Jīvaka,
đường kinh hành, nhà tắm,
không bằng phẳng, nền thấp,
(và) ba loại nền móng,
họ lại gặp khó khăn,
bậc cấp, có lan can,
tay vịn, ở ngoài trời,
rác cỏ, tô hồ vữa
bên trong và bên ngoài,
màu trắng và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
làm mặt đất cao hơn,
nền móng, vá bậc thang,
lan can, cửa ra vào,
trụ cửa, có rãnh xoay,
cái chốt xoay ở trên,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, lỗ để luồn,
và thêm sợi dây thừng.
Mô tròn, và ống khói,
ở giữa, và đất sét
đắp mặt, máng chứa đựng,
có mùi hôi, bị phỏng,
vại chứa nước, gáo múc,
không ra được mồ hôi,
và nền bị ẩm ướt,
lau sạch, làm rãnh thoát.
Ghế ngồi, và nhà kho,
cát, đá phiến, rãnh thoát,
ở trần, trên nền nhà,
trời đang mưa, ở đó,
ba loại vải để choàng,
giếng nước, bị sụp đổ,
bị thấp, sợi dây rừng,
dây buộc thân, cần giọt,
cần trục quay, ròng rọc,
nhiều gàu múc bị bể,
bằng thiếc, gỗ, da thuộc,
nhà, cỏ, và nắp đậy,
máng chứa nước, hồ tắm,
rào chắn, bị ẩm ướt,
và bằng rãnh thoát nước,
bị lạnh, hồ trữ nước,
nước ôi và mái vòng.
Bốn tháng, và họ nằm,
hoa thơm, không chú nguyện,
chạm trổ, giá đỡ bát,
họ ăn cùng một (tô),
nằm chung, chuyện Vaḍḍha,
chuyện Bodhi, không bước.
Cái chum, vật chà chân,
cái chỗi, loại chà chân
cát, sỏi, và bọt biển,
cái quạt, chỗi quét bụi,
quạt muỗi, quạt đuôi bò.
Ô dù, và không có,
trong tu viện, ba việc
đồng tình về sợi dây,
tật nhai lại, cơm rơi,
các móng dài, họ cắt,
các ngón tay bị đau,
chảy máu, và cắt sát
hai mươi, để tóc dài,
dao cạo, đá mài dao,
bao đựng, miếng vải len,
họ tỉa râu, để râu,
dưới cằm, thành bốn góc,
tạo dáng lông ngực, bụng,
giống ngà voi, cạo lông,
bệnh hoạn, kéo, vết thương,
lông dài, và mảnh sành,
tóc bạc, bị bít kín,
loại đặc biệt, đồng thau,
với thuốc cao, ngồi chỏ,
và miếng vải băng bó,
sợi dệt, kim, dây lưng,
do nhiều sợi bện lại,
có hình đầu rắn nước,
bện hình cái trống nhỏ,
như dây xích, bằng vải,
và hai đầu thắt lại,
chóp, khâu tròn, thắt nút,
đầu chóp vẫn bị sờn,
và đủ loại hột nút,
lại có loại hình dẹp,
từ mép được lùi vào.
Vải lót kẻ tại gia:
loại quấn như vòi voi,
vắt đuôi cá, bốn góc,
loại có tua, thật dài,
trùm vải choàng tục gia,
mặc váy, túi hai vai,
gỗ chà răng, gậy đánh,
bị vướng ở cổ họng,
và thêm đám lửa lớn,
đốt ngọn lửa nghịch chiều,
(trèo) cây, bởi con voi,
ngôn ngữ của bản thân,
giải đoán điềm lành dữ,
họ học rồi dạy lại,
họ nói chuyện nhảm nhí.
Ngài hắt hơi, điều lành,
và nhai (tỏi), bệnh gió,
và làm bẩn, mùi hôi,
khó khăn, bục tiểu tiện,
họ thẹn, đậy, mùi hôi,
và họ tiêu đó đây,
mùi hôi, hố chứa phân,
chúng sụp xuống, nền cao,
và nền móng, bậc thang,
lan can, và bên trong,
khó khăn, và bục tiêu,
(tiểu) ra ngoài, khe rãnh,
và gỗ chùi, thùng chứa,
và không được đậy lại.
Nhà tiêu, cửa, trụ cửa,
rãnh xoay, và chốt xoay,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, và lỗ xỏ,
sợi dây, vữa trong ngoài,
màu trắng và màu đen,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
năm sợi vải, sào máng,
và sợi dây treo y.
Già, yếu đuối, tay vịn,
và ở kho chứa đồ,
cũng như thế, rải cát,
trải lót bằng đá phiến,
đọng nước, rãnh thoát nước.
Lu nước, và gáo múc,
khó khăn, thẹn, nắp đậy.
Họ làm việc xấu xa,
được phép đồ kim loại,
trừ ra các vũ khí.
Bậc Đại Sĩ cho phép
tất cả vật bằng gỗ,
trừ trường kỷ, ghế dựa,
bát gỗ, giày dép gỗ.
Đấng Như Lai loại ra
vật chà chân, lu lớn,
còn từ bi cho phép,
tất cả vật gốm sứ.
Việc chỉ dẫn điều nào,
nếu giống điều trước đây,
điều đã được tóm tắt
ở trong phần tóm lược,
điều ấy nên biết đến
từ điều đã được dạy.
Như vậy một trăm mười
sự việc thuộc Tạng Luật
ở trong phần Tiểu Sự
sự duy trì chánh Pháp,
trợ giúp các vị tốt,
vị nắm giữ Tạng Luật
được học tập khéo léo,
tâm định tĩnh tốt đẹp,
vị thông minh, giải rõ,
đa văn, đáng cúng dường.
Dứt Chương các Tiểu Sự
[1] Sáu vị đứng đầu sáu nhóm
ngoại đạo thời đó.
[2] Tức là chân bình bát dạng
vòng tròn.
[3] Ngài Buddhaghosa giải
thích loại vòng đế bình thường chính là loại vòng đế có răng cá kiếm đã được cắt.
[4] Ngài Buddhaghosa giải
thích như sau: Vương tử Bodhi đã trải ra tấm thảm bằng vải với ước nguyện rằng:
“Nếu ta sẽ có được đứa con trai thì đức Thế Tôn sẽ bước lên tấm thảm trải bằng
vải của ta.” Và vì vị ấy không thể có con trai nên đức Thế Tôn đã không bước
lên. Nếu đức Thế Tôn bước lên, sau này vị vương tử không có con trai có thể
sanh tà kiến rằng: “Vị này không phải là Toàn Giác;” đó là nguyên nhân trong việc
đức Thế Tôn không bước lên tấm thảm trải bằng vải. Ngay cả các vị tỳ khưu trong
khi không biết rồi bước lên có thể bị hàng tại gia chê bai, do đó đức Thế Tôn
đã quy định điều học về việc này để tránh cho các vị tỳ khưu bị chê bai. Đây là
nguyên nhân của việc quy định điều học.
[5] Liên quan đến tội
pācittiya (ưng đối trị) 37.
[6] Ở phần giới của tỳ khưu
ni, ngài Buddhaghosa giải thích sambādho là hai nách và hạ bộ.
[7] Met,t,hakokuṭṭha được thấy
ở Tam Tạng của Thái Lan, còn ở Tam Tạng của Miến Điện và Tích Lan là Yameḷu và
Tekula.
[8] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Ở đây ‘saka nirutti’ nghĩa là sự giảng giải được nói ra bởi đấng Chánh Đẳng Giác tức là sự phát biểu bằng ngôn ngữ của xứ Magadha.” Các nhà học giả trong thời hiện tại đã nêu ra tranh luận về vấn đề này biện luận rằng từ sakāya còn có liên quan đến từ saka (bản thân) ám chỉ ngôn ngữ địa phương của mỗi cá nhân, thay vì Sakya (dòng dõi Thích Ca) ý nói đến ngôn ngữ cổ thời bấy giờ theo như lời giải thích của ngài Buddhaghosa.
Hết Chương 5 - Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments