Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
02. Chương Parivāsa (Parivāsakkhandhakaṃ)
4. Phận sự của vị thực hành mānatta (Mānattacārikavattaṃ)
[354] Câu chuyện về các vị thực hành mānatta
[356] Phận sự của vị thực hành mānatta
[365] Bốn sự đứt đêm của vị thực hành mānatta
[366] Sự ngưng hành phạt mānatta, sự ngưng phận sự
[367] Sự thọ trì lại hành phạt mānatta, sự thọ trì lại phận sự
[354] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hành mānatta tiếp nhận
sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi,
sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y
bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham
muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ,
sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu
trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[355] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thực hành mānatta tiếp nhận
sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ
khưu trong sạch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu thực hành mānatta lại tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các
tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu thực hành mānatta không nên tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của
các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như
trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu thực hành mānatta với
nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ
Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được
tính theo thâm niên cho các tỳ khưu thực hành mānatta.
Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ
khưu thực hành mānatta, các tỳ khưu thực hành mānatta nên thực hành theo như thế.
[356] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta nên thực hành
phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy
là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không
nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni,
không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, hội chúng đã cho hành phạt
mānatta với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội
nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị
thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha,
không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc
tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[357] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta không nên đi
phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ
ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên
chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta không nên đi đến
các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn
thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì
pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực
(nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[358] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta là vị vãng
lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên
trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình
báo trong lễ Pavāraṇā, nên trình báo mỗi ngày. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình
báo giùm.
[359] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ
có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với
vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực
hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ
trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi
có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ
khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ
khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như
trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như
trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có
tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc
nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có
tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ
khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có
nguy hiểm.
[360] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ
có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến
nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú
ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là
không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có
nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)…
không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không
nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ
khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch,
trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc
nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ
khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu
…(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có
tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với
vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[361] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ
có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta
có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được
rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc
nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu
…(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng
cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[362] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta cùng với vị tỳ
khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che,
không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che,
không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một
mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu
trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ
khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ
ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất,
không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch),
không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở
đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[363] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta cùng với vị tỳ
khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại
từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta …(như trên)…
cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với
vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng
một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một
mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ
cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi
cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi
(trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh
hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh
hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong
khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[364] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị thực hành mānatta thì
(nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại
từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy)
không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
[365] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức
Upāli đã nói với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài, vị tỳ khưu thực hành mānatta có bao nhiêu sự đứt đêm?
- Này Upāli, vị tỳ khưu thực hành mānatta có bốn sự đứt đêm: sự
cư ngụ chung (với các hạng tỳ khưu đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ
riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỳ khưu vãng lai,
v.v...), sự thực hành ở nhóm thiếu (nhân sự). Này Upāli, đây là bốn sự đứt đêm
của vị tỳ khưu thực hành mānatta.
[366] Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội tại
Sāvatthi. Các tỳ khưu thực hành mānatta không thể hoàn thành hành phạt mānatta.
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngưng hành phạt mānatta. Và này
các tỳ khưu, nên ngưng như vầy: Vị tỳ khưu thực hành mānatta nên đi đến một vị
tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên
nói như vầy: “Tôi ngưng hành phạt mānatta.” Hành phạt mānatta đã được ngưng lại.
“Tôi ngưng (thực hành) phận sự.” Hành phạt mānatta đã được ngưng lại.
[367] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Sāvatthi đã ra đi nơi này
nơi nọ. Các tỳ khưu thực hành mānatta có thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các
vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ trì lại hành phạt mānatta. Và
này các tỳ khưu, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỳ khưu thực hành mānatta nên đi đến
một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và
nên nói như vầy: “Tôi thọ trì lại hành phạt mānatta.” Hành phạt mānatta đã được
thọ trì lại. “Tôi thọ trì lại phận sự.” Hành phạt mānatta đã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị thực hành
mānatta
Xem Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments