Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
02. Chương Parivāsa (Parivāsakkhandhakaṃ)
5. Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội (Abbhānārahavattaṃ)
[368] Câu chuyện về vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội
[370] Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội
[376] Bài kệ tóm lược
[368] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các
tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh
lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu
trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[369] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các
tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại
tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của
các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các
tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như
trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội với
nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ
Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được
tính theo thâm niên cho các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội. Này các tỳ khưu, như
vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, các tỳ
khưu xứng đáng sự giải tội nên thực hành theo như thế.
[370] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội nên thực
hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh
ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ,
không nên bảo sa di phục vụ, …(như trên)… (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu. (Phận sự của vị xứng
đáng hành mānatta, của vị thực hành mānatta, của vị xứng đáng sự giải tội được
giải thích giống như phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu).
[371] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên
đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy
chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy
nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không
nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc
làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không
nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại
vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[372] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú
ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi)
với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng
đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ
trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi
có nguy hiểm. …(như trên)… (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ).
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ
có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta
có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[373] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội cùng với
vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái
che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái
che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng
một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ
khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị
tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở
chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền
đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch),
không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở
đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[374] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội cùng với
vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành)
trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta …(như
trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng
đáng sự giải tội nhưng thâm niên hơn không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ
cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ
cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ
trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi
trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên
chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một
đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh
hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[375] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng sự giải tội
thì thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực
hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai
mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và
không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng sự giải
tội
Dứt Chương Parivāsa là chương thứ
hai
Trong chương này có năm sự kiện.
Tóm lược chương này:
[376]
Các vị (bị phạm tội)
hành parivāsa
tiếp nhận sự đảnh lễ,
sự đứng dậy, chắp tay,
sự hành động thích hợp,
sắp xếp chỗ ngồi, nằm,
nước rửa chân, ghế kê,
tấm chà chân, rước bát,
kỳ cọ lưng khi tắm
của tỳ khưu trong sạch,
các vị tốt phiền não,
vị tiếp nhận tác ác.
Có năm điều khác nữa
được tính theo thâm niên:
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
y tắm, vật cúng dường,
bữa ăn (là thứ năm).
Phận sự cần nghiêm chỉnh,
khi vị ấy (cùng đi)
với tỳ khưu trong sạch.
Là điều bị hạn chế:
không (sa-môn) đi trước
hay thị giả đi sau,
cư ngụ ở trong rừng,
việc đem lại thức ăn,
trình báo đến vị khách,
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
và nhờ vị sứ giả.
Vị ấy có thể đi
nơi nào có tỳ khưu,
không ngụ chung mái che,
đứng dậy, và mời thỉnh,
và cũng y như thế
chỗ ngồi phải thấp hơn,
luôn cả lối kinh hành.
Đối với vị thâm niên,
kinh hành trên mặt đất,
không đi lối kinh hành.
Không là việc thực hành,
những lúc bị đứt đêm,
và vì sự toàn hảo,
việc ngưng, thọ trì lại.
Phận sự vị (phạm tội)
hành parivāsa,
vị hành lại từ đầu,
vị xứng mānatta,
vị hành mānatta,
vị xứng đáng giải tội,
được phân tích tương tợ
theo như phương pháp ấy.
Còn có ba điều nữa
cho vị (bị phạm tội)
hành parivāsa,
bốn điều cho các vị
thực hành mānatta,
không thực hành đúng đắn,
và các sự đứt đêm.
Phải trình báo hàng ngày
cho vị mānatta.
Hai hành phạt còn lại
cũng thực hành tương tợ
như ba hành phạt kia.
[1] Ngài Buddhaghosa giải
thích là theo thứ tự thâm niên so với các tỳ khưu trong sạch.
[2] Hai nền tảng của việc
không đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc không đồng cộng trú cho bản
thân hoặc là hội chúng hợp nhất ban án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận tội,
hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác (Đại
Phẩm – Mahāvagga, chương X, [240]).
[3] Lời giải thích trong ngoặc
đơn dựa vào Chú Giải Samantapāsādikā của ngài Buddhaghosa.
Hết Chương Parivāsa - Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments