Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
02. Chương Parivāsa (Parivāsakkhandhakaṃ)
3. Phận sự của vị xứng đáng hành phạt mānatta (Mānattārahavattaṃ)
[344] Câu chuyện về các vị xứng đáng hành phạt mānatta
[345] Phận sự của vị xứng đáng hành phạt mānatta
[344] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ
ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước
y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít
ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh
lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu
trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta tiếp
nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các
tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta lại
tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của
các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không nên
tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm
của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như
trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta với
nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ
Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được
tính theo thâm niên cho các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta.
Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ
khưu xứng đáng hành mānatta, các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nên thực hành
theo như thế.
[345] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nên thực
hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh
ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ,
không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu
ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, xứng đáng hành mānatta
với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm
trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực
thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không
nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc
tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[346] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không
nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy
chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy
nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không
nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc
làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không
nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại
vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[347] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta là vị
vãng lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên
trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình
báo trong lễ Pavāraṇā. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[348] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng
đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ
khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không
phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch,
trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có
nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như
trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như
trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có
tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ
không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ
không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải
là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch,
trừ phi có nguy hiểm.
[349] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không
nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến
chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi
ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi
có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)…
không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không
nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ
khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch,
trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ
khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu
…(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có
tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với
vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[350] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ
trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không
phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng
“Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được
rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ
khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú
ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng
cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[351] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta cùng với
vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái
che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái
che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng
một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ
khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị
tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở
chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền
đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch),
không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở
đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[352] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta cùng với
vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành)
trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nhưng
thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta …(như trên)…
cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú
ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ
cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ
trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi
trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên
chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một
đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh
hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[353] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng hành mānatta
thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho trở lại (hành
phạt) từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì
(nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực
hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng hành
mānatta
Xem Phận sự của vị thực hành mānatta
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments