Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 0201. Chương Parivāsa - Phận sự của vị thực hành parivāsa

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 1

02. Chương Parivāsa (Parivāsakkhandhaka)

1. Phận sự của vị thực hành parivāsa (Parivāsikavatta)


[320] Câu chuyện về vị thực hành parivāsa

[322] Chín mươi bốn phận sự của vị thực hành parivāsa

[331] Ba sự đứt đêm của vị thực hành parivāsa

[332] Sự ngưng hành phạt parivāsa, sự ngưng phận sự

[333] Sự thọ trì lại hành phạt parivāsa, sự thọ trì lại phận sự

[320] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?

Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[321] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy,

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu hành parivāsa không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaa (tác ác).

Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp tay, hành động thích hợp, việc sửa soạn chỗ ngồi, việc sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, việc tiếp rước y bát, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu hành parivāsa với nhau được tính theo thâm niên.

Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu hành parivāsa. [1] Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu hành parivāsa, các tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành theo như thế.

[322] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, hội chúng đã cho hành phạt parivāsa với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các t khưu với các tỳ khưu.

[323] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”

[324] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa là vị vãng lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāraā. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.

[325] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[326] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú,[2] trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[327] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

[328] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[329] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[330] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị hành parivāsa thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

Dứt chín mươi bốn phận sự của vị hành parivāsa

[331] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn rằng:

- Bạch ngài, vị tỳ khưu hành parivāsa có bao nhiêu sự đứt đêm?

- Này Upāli, vị tỳ khưu hành parivāsa có ba sự đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỳ khưu đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ tách rời (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỳ khưu vãng lai, v.v...).[3] Này Upāli, đây là ba sự đứt đêm của vị tỳ khưu hành parivāsa.

[332] Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỳ khưu hành parivāsa không thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngưng hành phạt parivāsa. Và này các tỳ khưu, nên ngưng như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi ngưng hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại. “Tôi ngưng (thực hành) phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại.

[333] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỳ khưu hành parivāsa có thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ trì lại hành phạt parivāsa. Và này các tỳ khưu, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi thọ trì lại hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại. “Tôi thọ trì lại phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại.

Dứt phận sự của vị hành parivās

Xem Phận sự của vị xứng đáng trở lại từ đầu

Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments