Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
02. Chương Parivāsa (Parivāsakkhandhakaṃ)
1. Phận sự của vị thực hành parivāsa (Parivāsikavattaṃ)
[320] Câu chuyện về vị thực hành parivāsa
[322] Chín mươi bốn phận sự của vị thực hành parivāsa
[331] Ba sự đứt đêm của vị thực hành parivāsa
[332] Sự ngưng hành phạt parivāsa, sự ngưng phận sự
[333] Sự thọ trì lại hành phạt parivāsa, sự thọ trì lại phận sự
[320] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana,
tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh
lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa
soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự
kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn,
...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng
dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm,
nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng
trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[321] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự
đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự
sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát,
sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy,
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận
sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi,
sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y
bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự
việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm
niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, các tỳ khưu hành parivāsa không nên tiếp nhận
sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi,
sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y
bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp
tay, hành động thích hợp, việc sửa soạn chỗ ngồi, việc sửa soạn chỗ nằm, nước rửa
chân, ghế kê chân, tấm chà chân, việc tiếp rước y bát, việc kỳ cọ lưng trong
khi tắm giữa các tỳ khưu hành parivāsa với nhau được tính theo thâm niên.
Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ
Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường),
bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu hành parivāsa. [1] Này
các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu hành parivāsa,
các tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành theo như thế.
[322] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành phận
sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là:
Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên
bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không
nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, hội chúng đã cho hành phạt
parivāsa với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội
nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị
thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha,
không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc
tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[323] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi phía
trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi
cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp
nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi đến các
gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị
giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì
pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực
(nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[324] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa là vị vãng lai
nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên trình
báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo
trong lễ Pavāraṇā. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[325] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có
tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị
tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành
parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ
không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy
hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không
nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ
phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng
đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ
khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến
nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ
khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành
parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ
khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ
khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này
các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ
khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này
các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có
nguy hiểm.
[326] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có
tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là
không đồng cộng trú,[2] trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có
nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu
không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi
ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi
có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ
khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu
nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ
khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở
nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ
phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ
khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị
tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành
parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ
hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không
đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu
các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu
trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở
chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng
trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các
tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú
ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ
có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với
vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[327] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có
tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng
trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị
tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là
chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng
“Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành
parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải
là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được
rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy
là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này
các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ
khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở
nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày
nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ
có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ
khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi
đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi
không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu
các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội
trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc
nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ
trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng
“Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành
parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi
đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở
nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày
nay.”
[328] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ
khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không
nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không
nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái
che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong
sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu
trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi
thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất,
không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch),
không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở
đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị
kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[329] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ
khưu hành parivāsa thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực
hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành
mānatta…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta…(như trên)… cùng với
vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng
một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một
mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ
cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi
cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi
(trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường
kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi
kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành
(trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[330] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị hành parivāsa thì
(nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại
từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy)
không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt chín mươi bốn phận sự của vị
hành parivāsa
[331] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến
đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại
đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài, vị tỳ khưu hành parivāsa có bao nhiêu sự đứt đêm?
- Này Upāli, vị tỳ khưu hành parivāsa có ba sự đứt đêm: sự cư ngụ
chung (với các hạng tỳ khưu đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ tách rời
(chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỳ khưu vãng lai, v.v...).[3]
Này Upāli, đây là ba sự đứt đêm của vị tỳ khưu hành parivāsa.
[332] Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội tại
Sāvatthi. Các tỳ khưu hành parivāsa không thể hoàn thành hành phạt parivāsa.
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép ngưng hành phạt parivāsa. Và này
các tỳ khưu, nên ngưng như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một vị tỳ
khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói
như vầy: “Tôi ngưng hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại.
“Tôi ngưng (thực hành) phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại.
[333] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Sāvatthi đã ra đi nơi này
nơi nọ. Các tỳ khưu hành parivāsa có thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị
tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ trì lại hành phạt parivāsa. Và
này các tỳ khưu, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một
vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên
nói như vầy: “Tôi thọ trì lại hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được
thọ trì lại. “Tôi thọ trì lại phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị hành parivās
Xem Phận sự của vị xứng đáng trở lại từ đầu
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments