Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Vô Ngã, Vô Ưu – Ayya Khema
Being Nobody, Going Nowhere
Diệu Liên – Lý Thu Linh
Chương 8. Kinh Từ Bi
Chương 8. Kinh Từ Bi
Người hằng mong thanh tịnh: Nên thể hiện
pháp lành,
Có khả năng, chất phác, Hiền hòa, không kiêu
mạn, Sống dễ dàng, tri túc, Thanh đạm không rộn ràng, Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh,
Chuyên cần, không quyến niệm, Không làm điều
ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê, Nguyện thái bình an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh, Tràn đầy muôn hạnh phúc, Chúng sinh dù yếu mạnh, Lớn
nhỏ hoặc trung bình, Thấp cao không đồng đẳng, Hết thảy chúng hữu tình, Lòng từ
không phân biệt, Hữu hình hoặc vô hình.
Đã sinh hoặc chưa sinh, Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc. Đừng lừa đảo lẫn
nhau, Chớ bất mãn điều gì, Đừng mong ai đau khổ,
Vì tâm niệm sân si, Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Hãy mở rộng tình thương, Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở, Đứa con một của mình,
Hãy phát tâm vô lượng, Đến tất cả sinh linh, Từ Bi gieo cùng khắp, Cả thế gian
khổ hải,
Trên dưới và quanh mình, Không hẹp hòi oan
trái, Không hờn giận căm thù, Khi đi, đứng, ngồi, nằm, Bao giờ còn thức tĩnh,
Giữ niệm từ bi này,
Thân tâm thường thanh tịnh, Phạm hạnh chính
là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm trì, Đạt Chánh trí viên
mãn, Không ái nhiễm dục trần, Thoát ly đường sinh tử.
Lời Đức Phật dạy (Kinh Nipata)
(Nguồn: Nghi Thức Tụng Niệm,
Chùa Đạo Quang, TX USA)
Nếu chúng ta đứng quá gần một tấm kính, ta sẽ không thể thấy gì.
Mà xa quá thì cũng thế. Chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải thì mới có
thể nhìn thấy rõ.
Kinh Từ Bi quá quen thuộc đối với đa số chúng ta. Chúng ta hiểu
nghĩa kinh khuyên nhủ ta nên thương yêu tất cả mọi người. Điều đó rất đúng. Nhất
là đối với những người gây khó khăn cho ta, những người không theo ý ta, không
như ta mong đợi. Vậy ta hãy bước gần lại với Kinh Từ Bi, nếu ta đang đứng quá
xa, hay lùi lại vài bước nếu ta chỉ biết thuộc kinh, để hiểu thật sự những lời
kinh nói gì, có ý nghĩa gì.
Kinh bắt đầu với: Người hằng mong thanh tịnh, nên thể hiện phép
lành... Đó là một lời nói khá thú vị vì nó diễn tả tính hoàn thiện như một kỹ
năng, và kỹ năng có thể được rèn luyện, học tập. Tất cả chúng ta đều có những kỹ
năng do rèn luyện mà có được. Nói là một kỹ năng. Đi đứng cũng thế. Chúng ta đã
luyện tập những kỹ năng này khi còn bé, và sau bao nhiêu năm, giờ chúng ta đã
trở nên quá thuần thục. Việc hành thiền cũng là một kỹ năng có thể được học tập,
rèn luyện, và trong thực tế thiền đang được người ta học tập, rèn luyện. Lái
xe, giặt ủi cũng là kỹ năng. Chúng ta học tập các kỹ năng này trong các cộng việc
hằng ngày ở nhà.
Thiện tánh được rèn luyện qua giáo dục, môi trường, nhưng nó sẽ
chẳng thể hoàn toàn nếu như chúng ta không cố gắng thực hành. Nó không phải tự
nhiên mà có. Tất cả chúng sanh đều có căn tánh thiện, nếu không chúng ta đã
không có mặt ở nơi này. Do nghiệp lành mà ta có mặt nơi đây, nhưng chúng ta
cũng mang đầy các nghiệp chướng. Đức Phật trong Tâm kinh đã hướng dẫn đầy đủ
các cách để viên mãn thiện căn trong ta. Đó là một phẩm kinh ngắn, mở đầu với
những lời giáo huấn cơ bản trong cuộc sống đời thường, dẩn đến hoàn toàn giải
thoát giác ngộ. Đây là bài thuyết pháp có nhiều cấp độ. Các bài Pháp của Đức Phật
thường là như thế; ai cũng có thể lắng nghe, dầu là những người sơ cơ hay đã
huân tập lâu ngày, đều có thể tìm thấy sự lợi ích. Tất cả chúng sanh, những ai
có thể nghe và lãnh hội được, có thể áp dụng bài kinh để đi từ cuộc sống thế tục
dần tiến lên cõi thanh cao.
Đức Phật nói lời thuyết pháp của Ngài tựa như biển cả. Lúc đầu
khi ta còn ở gần bờ, thì biển cạn. Có thể chỉ làm ướt chân ta. Khi ta tiến sâu
hơn ra xa, biển trở nên sâu hơn, sâu hơn nữa để dần trùm phủ ta trong lòng biển.
Giáo lý của Đức Phật cũng thế. Chúng ta bắt đầu bằng cách nhún chân, thăm dò nước
biển ấm lạnh. Như khi ta thử hành thiền nữa ngày, rồi dăm ba ngày, cho đến khi
cuối cùng ta có đủ can đảm để dự khóa tu thiền mười ngày và có thể hành thiền
suốt thời gian ấy. Chúng ta học Phật pháp cũng thế, từng chút từng chút, cho đến
khi cả cuộc sống của ta đều là sống trong pháp.
Và rõ ràng sự bình an không phải do ai ban tặng cho ta. Chính ta
phải tìm lấy. Không thể có bình an chỉ vì ta mong mỏi hay ước muốn điều đó. Mà
chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm. Không thể đạt được điều gì nếu không có sự nỗ lực.
Tiếp theo Đức Phật cho biết ta cần có những đức tính gì để có thể
viên mãn thiện tánh, đạt đến giải thoát. Có hai điều căn bản quan trọng nhất
trong bài pháp này, đó là cách ta giao tiếp với người. Trước hết ta phải tự sửa
đổi chính bản thân. Không ích lợi gì khi chúng ta chỉ nói, hay nghĩ: "Từ
bi, từ bi" nhưng không làm gì để tự thanh lọc bản thân.
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để
có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả
nhân loại trên thế giới. Những đức tính này được kể ra: Ta cần có khả năng,
không phải phụ thuộc vào người khác, chỉ dựa vào chính bản thân. Tự lực sẽ khiến
ta có lòng tự tin; lòng tự tin lại khiến ta cảm thấy tự tại. Khi chính ta cảm
thấy tự tại, ta mới có thể mở lòng thương yêu người khác. Ngược lại khi ta còn
phải phụ thuộc vào kẻ khác, còn phải nhờ vào sự giúp đỡ, hỗ trợ, nhờ vào lòng tốt
của người khác để có thể sinh tồn hay hoàn thành các công việc hằng ngày, thì
chúng ta luôn sợ hãi rằng họ sẽ bỏ rơi ta. Sự sợ hãi, âu lo không thể mang đến
cho tâm sự bình an. Tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau, nhưng lòng sợ hãi bị
bỏ rơi hay không có khả năng để tự chăm sóc là một vấn đề hoàn toàn khác. Sự sợ
hãi quá đáng có thể khiến ta phải tuân phục theo bất cứ điều kiện nào để nắm giữ
cái ta đang có, do thiếu lòng tự tin. Như thế làm sao có thể tự tại.
Cần sự chất phác... Người chất phác không chỉ nói lời chân thật,
là điều căn bản, mà cũng không tìm cách lợi dụng người hay tạo điều kiện để thủ
lợi cho cá nhân. Chất phác là hoàn toàn chân thật, chỉ nói những điều dựa vào sự
hiểu biết của mình, chứ không phải để làm vừa lòng người khác. Chất phác có
nghĩa là chúng ta coi trọng sự thật. Giáo lý Đức Phật đặt trọng tâm ở “bốn chân
lý diệu nghiệm.” Nếu chúng ta tự biết mình có tánh chất phác, trong sạch, ta sẽ
không bao giờ xa rời các cảm xúc, hiểu biết của mình. Chúng ta biết mình chân
thật với chính mình. Nếu không như thế, ta sẽ không bao giờ có được tâm bình
an.
Kế tiếp ta phải thẳng thắng... có nghĩa là trung thực, không
quanh co, không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế cần có tâm chân thật.
Không có tâm chân thật thì khó có thể là người trung thực. Đó là một khả năng,
cần được trao dồi bằng chánh niệm trong thiền định. Với người thẳng thắng, ta
thấy dễ giao tiếp. Vì ta biết rằng họ chỉ nói những điều họ thật sự nghĩ. Chúng
ta không phải thắc mắc, "Không biết họ có thực sự nghĩ vậy không? Không biết
nói thế, họ có ý gì?" Trái lại, ta có thể tin tưởng họ. Với những người
đáng tin cậy, ta sẽ có được sự liên hệ tốt đẹp. Nếu tất cả mọi người đều có thể
tin cậy lẫn nhau, thì liên hệ giữa con người sẽ dễ dàng, bớt phức tạp biết bao
nhiêu.
Không kiêu ngạo... Một thành ngữ tiếng Anh có nói "Kiêu ngạo
đứng trước Thất bại.” Kiêu ngạo là sự tập trung vào cái ngã một cách vô lý, dầu
đó là kiêu ngạo về địa vị, sở hữu, sự thành đạt hay vẻ dáng bề ngoài. Tất cả chỉ
để tôn vinh cái ngã. Hay hơn thế nữa. Lòng kiêu ngạo khiến ta có cảm giác mình
hơn người, khiến ta lạnh lùng với người.
Có câu chuyện về một người Bà la môn ở vào thời Đức Phật còn tại
thế. Ông ta được đặt biệt hiệu là Cứng Cỗ (Pridestiff) vì không bao giờ chịu đảnh
lễ một ai. Dầu cho người đó là các đấng ông ta hằng thờ phụng, hay là các sư phụ
của mình. Ông ta cũng không bao giờ đến nghe Đức Phật giảng Pháp. Nhưng một
ngày, trước sự kinh ngạc của mọi người ông ta đã xuất hiện. Ông ta lắng nghe Đức
Phật thuyết pháp, và khi Đức Phật chấm dứt bài pháp, ông đến đảnh lễ Đức Phật.
Cả hội chúng đều phải kêu ồ lên. Tuy nhiên ông ta có giao ước với Đức Phật. Ông
nói rằng sau khi được nghe bài thuyết pháp của Đức Phật, ông rất muốn được trở
thành đệ tử của Ngài, nhưng ông không muốn đánh mất biệt hiệu của mình. Cho nên
sau này nếu có gặp Đức Phật ở nơi công cộng, Đức Phật có chấp nhận cho ông chỉ
ngã mũ chào, thay vì phải quỳ đảnh lể theo đúng phép tắc? Đức Phật đã chấp nhận
lời đề nghị đó. Vì thế ông ta đã giữ biệt hiệu ‘Cứng Cổ’ cho đến ngày cuối đời.
"Cứng nhắc vì Tự Ái" là cách chúng ta thường nói. Sự cứng
nhắc cho thấy người đó không có khả năng chấp nhận những tư tưởng mới, những
cái nhìn mới. Tự ái là một quan điểm, và bất cứ điều gì mới mẻ đều có thể làm
cho cái nền tảng mà lòng kiêu ngạo được đặt trên đó bị lung lay. Rất khó cho
người tự ái học hỏi một điều gì mới. Người đó rất thường nói, "Tôi biết rồi"
trong lúc thực sự không biết gì hết.
Sống dễ dàng... khiến người khác dễ giao tiếp, chuyện trò. Không
hay giận dữ, nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt, thường để ý đến điều người khác
nói, có khả năng lắng nghe. Biết lắng nghe là một nghệ thuật, mà đa số chúng ta
chưa phát triển được. Sống dễ dàng, dễ giao tiếp khiến phát sinh những mối quan
hệ tốt với người. Người khác cảm thấy được cảm thông, được lắng nghe, không bị
chỉ trích, được giúp đỡ.
Tuy nhiên, "dễ giao tiếp" không có nghĩa là hay nói
chuyện phiếm, hay nói để mà nói. Mà đó là người đáng để chúng ta trò chuyện,
người đầy lòng thương yêu với mọi người. Không có lòng thương yêu, thì khó thể
khiến người muốn đến gần ta, vì ta đang mãi lo nghĩ về bản thân hơn là nghĩ về
ai khác.
Trước khi nói đến thương yêu tha nhân, ta cần phải hội đủ những
tính chất trên. Bài kinh đã không nhắc đến lòng từ bi, tình thương cho đến khi
tất cả những điều kiện khác đã được nói rõ.
Đức Phật đã dùng một ẩn dụ để nói về những loại người khác nhau.
Đức Phật đã so sánh những người lắng nghe Ngài với bốn loại nồi khác nhau. Loại
thứ nhất bị lủng ở đáy. Khi người ta chế nước vào, nước lập tức bị chảy ra. Những
người vừa nghe thấu tai này đã ra tai kia. Loại thứ hai có vết rạn. Khi đổ nước
vào, nước cũng dần dần thấm ra ngoài. Loại người này khi rời khỏi chỗ ngồi, ra
đến cửa là đã quên ngay. Loại thứ ba là loại đã đầy đến tận miệng. Đây là những
người luôn nói "Tôi biết, tôi hiểu rồi.” Những người này hoặc là không lắng
nghe, hoặc những điều họ nghe thấy chẳng có ảnh hưởng gì. Ta có thể chế thêm bất
cứ gì, nhưng họ đã đầy những quan điểm riêng, những hiểu biết riêng của họ. Cuối
cùng là loại nồi không thủng đáy, không có vết nứt, hoàn toàn trống rỗng. Ta có
thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch trong như thế để cho
mọi người cùng uống.
Điều kiện kế tiếp là hiền hòa... Hiền hoà đối nghịch với sấn sổ,
lấn lướt. người độ lượng đã phát triển được tâm đến độ thấy được lỗi mình hơn
là thấy lỗi người. Tự thấy được lỗi mình rất lợi ích cho ta, vì ta có thể tự sửa
đổi. Trái lại thấy lỗi người không ích lợi gì. Chỉ khiến ta thấy không ưa người
khác. Rồi từ không ưa, dẫn đến không thân thiện, cãi vả, trang luận, thuyết phục,
tất cả đều vô ích. người độ lượng hay tự soi rọi mình với tâm đầy chánh niệm.
Thanh đạm... Người thanh đạm, tự tại là người thanh thản. Do đó
ta cần phải biết bằng lòng với hoàn cảnh, môi trường sống, tiền bạc, vẻ bề
ngoài, hay sự hiểu biết của ta. Không có nghĩa là ta trở nên dễ dãi. Tự tại và
dễ dãi không phải là một thứ.
Sự dễ dãi khiến ta nói: "Tôi đã làm tất cả khả năng rồi. Tôi
yên ổn rồi. Không phàn nàn gì hết.” Trái lại, sự tự tại là "Những gì xảy
ra cũng là điều kiện giúp tôi tiến bộ.” Sự tự tại rất cần cho hoà bình. Vì sự
phật lòng, trái ý khiến tâm cũng như thế giới trở nên đảo lộn. Khi không vừa
lòng, ta dễ làm những việc kỳ cục nhất để thay đổi những gì ta nghĩ là nguyên
nhân. Chúng ta tranh cãi, cố thay đổi những người sống quanh ta, thế giới ta
đang sống, tranh cãi về các món ăn, về quan niệm, đôi khi cả tôn giáo. Tại sao
tất cả những việc này lại xảy ra? Vì ta không tự tại, không vừa lòng. Tất cả
các hành động trên đều không mang đến sự tự tại. Chỉ có một cách khiến ta được
tự tại vừa lòng là hãy tự sửa đổi mình. Là điều không thể thực hiện được khi
không có tự tại. Mà chỉ có thể được thực hiện với lòng kiển nhẫn, cố gắng và một
ít trí tuệ. Không có trí tuệ sẽ không có gì xảy ra cả.
Tri túc... Tri túc có nghĩa là chúng ta không có nhiều tham cầu
cá nhân; không phải vì chúng ta đè nén chúng, mà là vì ta nhận thấy chúng không
đem đến cho ta hạnh phúc. Chúng ta không chạy đuổi theo đủ kiểu áo quần mới, đủ
kiểu bàn ghế, ăn uống hay những thứ vật chất khác. Nhở thế ta được tự tại vì ta
biết bằng lòng với những gì mình đang có. Chúng ta hiểu rằng dầu ta có mua sắm,
sở hữu bất cứ thứ gì, rồi chúng cũng trở thành cũ, rách, để rồi cuối cùng ta
cũng phải vứt bỏ chúng đi, mà ta lại phải khổ sở chạy đuổi theo chúng, khiến ta
không được tự tại. Dĩ nhiên ta cần có những thứ cơ bản cho cuộc sống của ta được
thoải mái, nhưng ta không cần những thứ ấy trong đủ kiểu dáng, màu sắc, kích cỡ
khác nhau mới có thể sống thoải mái.
Ham muốn thì khổ đau vì nó chứng tỏ là người ta còn thấy thiếu thốn.
Nếu chúng ta là người tri túc, biết đủ, ta sẽ buông bỏ được lòng ham muốn vì ta
muốn xả phiền não, khổ đau. Nếu ta có được điều mình ước muốn, có thể ta sẽ thấy
vui sướng trong chốc lát; nhưng nếu ta không đạt được ý nguyện, thì ta cảm thấy
khổ đau, rồi sau đó ta lại khởi lòng ham muốn trở lại. Một vòng luẩn quẩn trong
khổ đau, chẳng bao giờ dẫn ta đến được thanh tịnh. Trước khi hiểu được thế nào
là lòng từ bi, tình thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt tham cầu, để
cái ngã của ta không còn chiếm lĩnh mọi suy tư của ta.
Không rộn ràng, không bị nhấn chìm trong lo toan... Nếu chúng ta
không có thời gian để quay vào bên trong, tự vấn lòng, chúng ta sẽ khó thay đổi
được gì. Nếu ta hết tham gia họp hành, lại viếng thăm hàng xóm, bà con, nếu
chúng ta tự tạo ra sự bận rộn, lăng xăng quanh mình, không tự để ta có được
giây phút nào tự suy gẫm, thiền quán, thì ta sẽ không có được sự bình an. Chúng
ta cần thời gian để tạo ra một môi trường lành mạnh, bình an quanh ta cũng như
trong ta.
Biết cần kiệm cũng là một trong muôn cách... Cần kiệm là một đức
tính. Nó chứng tỏ lòng trân trọng đối với những gì đã được tạo ra bằng sức lao
động, công khó nhọc của người khác; ta không vứt bỏ đi sản phẩm của họ khi
chúng bắt đầu hao mòn. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng lòng với những cái
ít ỏi, không đòi hỏi những cái tốt nhất cho mình. Vì lúc nào cũng có cái tốt
hơn cái ta đang có. Một chiếc TV lớn hơn, một tủ lạnh rộng hơn, một cái nhà đẹp
hơn, một cái xe tốt hơn, không kể đến bao nhiêu thứ có thể khác. Không có chỗ dừng
cho các ham muốn. Nếu cuộc đời ta chỉ để chạy đuổi theo những ham muốn đó thì
thật là phí thời gian, phí một kiếp người.
Cần kiệm có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ
không phải cố gắng để có được càng nhiều càng tốt. Chút ít đến đâu để có thể chấp
nhận được thì có chừng mực, nhưng lòng ham muốn thì không có giới hạn. Tham cầu
có thể dẫn ta lên đến mặt trăng. Còn nói được gì hơn nữa? Ai cần đến mặt trăng
chứ? Chúng ta có thể suy nghĩ thêm về điểm này, và cố sống cần kiệm, vì nó đem
đến cho ta sự bình yên.
Các căn thanh tịnh... Sự thanh tịnh của các căn là một trong những
yếu chỉ của Đức Phật. Các căn của ta luôn dẫn ta đi lạc hướng. Nhìn thấy cái gì
đẹp, ta liền muốn sở hữu ngay, dầu chỉ là một đóa hoa. Nhìn thấy hoa đẹp, liền khiến
ta có những hành động sai quấy như hái hoa, khiến cánh hoa bị hủy hoại, không
còn mang lại niềm vui cho ai khác nữa.
Thực tập chánh niệm giúp ta nhận thức được rằng nghe chỉ là nghe,
thấy chỉ là thấy. Nghe chỉ là âm thanh. Thấy chỉ là cảnh. Rồi tâm bày vẽ thêm
bao điều quanh những cái ta thấy nghe như là: "Cái này đẹp quá, tôi muốn
có. Cái kia xấu quá, tôi không muốn nhìn, muốn nghe về nó nữa.” Các căn của ta
không ngưng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta đâu muốn không được thấy,
nghe, ngửi, sờ, nếm. Cuộc sống của ta sẽ khó khăn biết bao nếu thiếu chúng,
nhưng chúng cũng mang đến cho ta bao ảo tưởng trong cuộc sống. Chúng giống như
các nhà ảo thuật vì bất cứ lúc nào, khi vừa tiếp xúc với bên ngoài, chúng lập tức
khiến tâm ta tạo ra bao tiếng vang dội, phản ứng. Do vậy ta luôn phải canh các
cánh cửa giác quan để cho dầu có thấy, có nghe, có ngửi, có xúc chạm, chúng ta
cũng không sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Điều này rất khó thực hiện, nhưng là
một yếu tố quan trọng giúp ta thoát khỏi được khổ đau.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị tu sĩ trưởng lão, tên là
Bahia. Là người đã tu nhiều năm, cũng được bao người kính trọng, nên vị tu sĩ
này nghĩ là mình đã đắc đạo. Ông nghĩ mình đã dứt bỏ được nhiều ham muốn, sân hận
trong nhiều năm. Một đêm kia, một vị thần hiện ra nói với ông: "Bahia, ông
chưa thật sự đạt được giải thoát giác ngộ. Thật ra, ông còn chưa biết đến con
đường đưa đến giác ngộ.” Nghe vậy, thầy Bahia rất giận, ông nói: "Gì chứ?
Tôi mà không biết con đường giải thoát giác ngộ sao? Vậy thì ai biết? Hãy nói
cho tôi biết mau.” Vị thần trả lời: "Chính Đức Phật mới là người biết con
đường đi đến giác ngộ. Hãy đến tham kiến Người.”
Thầy Bahia liền hỏi thăm nơi Đức Phật ở. Vị thần liền bảo cho ông
biết, lập tức, giữa đêm khuya, thầy Bahia ngồi dậy, bắt đầu đi tìm Đức Phật.
Sáng hôm sau, ông tìm đến ngôi nhà nơi Đức Phật đang trú ngụ, nhưng người ta trả
lời: "Xin lỗi. Ông không thể gặp Đức Phật bây giờ. Ngài đang đi khất thực.”
Bahia trả lời: "Tôi sẽ đi tìm Ngài.” Lại được trả lời: "Không. Xin
ông đừng đi. Đức Phật không trả lời tham vấn khi Ngài đang đi khất thực.” Nhưng
Bahia nhất quyết làm theo ý mình. Vì ông rất nóng lòng muốn biết con đường đưa
đến giác ngộ.
Ông chạy tìm và gặp Đức Phật đang trên đường khất thực. Ông đảnh
lễ Đức Phật và nói: "Thưa Ngài, tôi muốn được hỏi Ngài một câu.” Đức Phật
trả lời:
"Bahia, ông đã đến không đúng lúc.” Bahia lại hỏi và lại được
trả lời: "Ông đã đến không đúng lúc.” Bahia lại hỏi đến lần thứ ba, Đức Phật
nói: "Thôi được rồi Bahia. Thế ông muốn biết điều gì?" Bahia đáp:
"Tôi muốn biết con đường đi đến giác ngộ.” Đức Phật trả lời: "Này
Bahia, khi thấy chỉ thấy. Khi nghe chỉ nghe, khi biết chỉ biết.” Thầy Bahia liền
tạ ơn Đức Phật rồi đi.
Buổi chiều, khi Đức Phật cùng đi với các vị đệ tử khác, Ngài nhìn
thấy xác Bahia ở bên đường, chết vì một con trâu đâm phải. Đức Phật nói:
"Bahia đã chứng đắc giác ngộ trước khi chết.” Bahia đã tu hành trong ba
mươi năm, và có thể trong nhiều kiếp trước đó nữa, nên đã có thể hiểu ngay những
lời dạy của Đức Phật. Khi ta thấy cái gì, đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ
thêm bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét. Với
các giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Tất cả các căn đều
không thể khiến ta tạo ra nghiệp kể cả ý căn, trừ khi chúng ta bắt đầu thấy ưa,
thấy thích, thấy ghét, thấy chán. Thầy Bahia đã hiểu được điều đó.
Giờ có lẽ chúng ta cũng đã hiểu, và có thể thực hành như thế. Điều
đó có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở,
tiếng chuyển động - đó là những lúc ta có thể thực hành chỉ nghe tiếng động.
Khi ta nhìn thấy một bông hoa đẹp, chỉ tập nhìn mà không nói rằng: "Tôi sẽ
trồng loại hoa đó trong vườn", hay, "Cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng
trong bình hoa.” Hãy chỉ nhìn, và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp
xúc với các căn.
Các vị A-la-hán vì đã thanh tịnh được các căn, đã buông bỏ được mọi
ham muốn, nên được tự tại. Đó là sự tự tại với chính mình, khi không có gì được,
có gì mất.
Thanh tịnh các căn, không có nghĩa là hủy bỏ các căn hay đè nén
chúng. Chỉ có nghĩa là nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất
chân thật của chúng. Khi chân bị đau, liền biết đó là do xúc chạm. Từ xúc chạm
dẫn đến cảm giác, trong trường hợp này là một cảm giác khó chịu. Cảm giác đó dẫn
tới ý thức: "Đây là sự đau đớn.” Từ ý thức dẫn đến tâm hành, "Tôi khó
chịu quá. Tôi phải thoát ra khỏi cảnh này.” Cũng như với các cảnh, cái nghe,
cái thấy khó chịu, ở đây ta cũng muốn thoát khỏi cảm giác khó chịu. Sự thực tập
này giúp ta thêm chánh niệm, để chấm dứt các hành động theo thói quen. Khi
chúng ta có thể thanh tịnh dần các căn, lòng ham muốn của ta cũng dần giảm bớt,
giúp ta có được sự tự tại. Vì lòng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được
an. Lòng ham muốn càng mãnh liệt, sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước
muốn không được toại nguyện. Không có được cái ta muốn có là khổ đau. Thanh tịnh
các căn dẫn đến sự bình yên...
Trí tuệ... Thật thú vị khi biết trí tuệ là một trong mười lăm điều
kiện, vì ta thường nghĩ con người được sanh ra hoặc là có trí tuệ hoặc là
không. Nhưng rõ ràng không phải thế. Nếu ta nằm trên giường ba tháng, ta phải học
đi trở lại. Nếu ta không sử dụng cái đầu, thì ta phải học lại cách suy tư. Trí
tuệ là cái có thể rèn luyện và phải được vun trồng bằng phương pháp luyện tâm
trong thiền định. Nếu không tu tập thiền, rất khó định được tâm. Tâm không uốn
nắn muốn đi đâu thì đi, từ hạnh phúc đến khổ đau, từ lo âu đến sợ hãi, từ phấn
chấn đến trầm cảm, từ ham muốn đến nhàm chán. Tâm được rèn luyện trong thiền
quán có thể sử dụng các khả năng bẩm sinh của mình một cách hữu hiệu nhất. Cần
phải có trí tuệ mới hiểu được những lời dạy của Đức Phật. Tâm sáng suốt là tâm
nhanh nhẹn, có thể đổi thay, theo hướng dẫn của ta. Nó sẽ đi đến nơi nào ta muốn
và còn có thể phát triển. Nó không cố chấp bám vào những thói quen, lề thói,
phong cách cũ mòn. Nó có thể phát triển.
Không luyến niệm... Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam
giới và nữ giới. Ngài nói: "Đàn ông giống như những con quạ bay vênh váo
trên cao, tìm kiếm con mồi; phụ nữ thì như giống cây leo, mong tìm một thân cây
để tựa nương. Cả hai đều phải từ bỏ tánh cách của mình. Con quạ là biểu tượng của
càn bướng. Ở tu viện của chúng tôi, các chú quạ vẫn tranh phần ăn của mèo. Thật
là càn, phải không? Chúng đi thẳng vào hành lang, giựt đồ ăn ngay dưới miệng
mèo. Liều càng là biểu hiện của sự quyết đoán. Quyết đoán không giống như tự
tin. Tự tin dựa vào sự bằng lòng với chính bản thân, khiến ta cảm thấy tự tại.
Không cần phải lấn lướt ai. Không ai thích người càn bướng, chỉ biết có mình, bất
chấp đến ai, giống như chú quạ kia. Trái lại người tự tin có thể tự đứng trên
đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển vọng của mình. Không cần phải cho người
khác biết về những điều đó. Ngược lại càn bướng không phải là để phát huy lòng
tự tin, mà chỉ thổi phồng thêm ngã chấp.
Không bị đám đông lôi kéo... Nếu người khác sân hận, ta không để
lòng sân đó lôi kéo. Nếu ai đó âu sầu, ta không ủ rũ theo. Nếu người khác có ý chỉ
trích ai, ta không hùa theo vì thích nói những chuyện như thế. Chúng ta có thể
làm chủ được các cảm xúc của mình.
Khi chúng ta không kiềm chế được lòng sợ hãi, ta sẽ bị khiếp đảm.
Khi không kiềm chế được sân hận, sẽ có giao tranh. Khi ta không làm chủ được
các cảm xúc của mình, ta sẽ bị kẻ khác lôi kéo - đàm tiếu, nói xấu, hỗn loạn,
khiếp đảm, chiến tranh. Để không bị cảm xúc của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần
phải cảm nhận được những cảm xúc của riêng mình, và phải trụ nơi đó. Ta phải tự
biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác.
Hãy tránh xa những điều mà bậc hiền trí chê bai... Đó là điều kiện
thứ mười lăm, có nghĩa là không phạm ngũ giới:
1. Tôi nguyện không
giết hại sinh vật.
2. Tôi nguyện không lấy
của người
3. Tôi nguyện không phạm
tà dâm
4. Tôi nguyện không
nói lời sai trái
5. Tôi nguyện không uống
rượu hay dùng các thứ làm mê say...
Bất cứ ai có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới
nào cũng đáng chê trách. Giận dữ, sân hận cũng đáng trách. Thật thú vị khi biết
rằng người ta muốn bỏ tánh này biết bao. Không chỉ vì đó là khuyết điểm, mà vì
lòng sân hận khiến ta rất khó chịu. Lòng ham muốn, tham lam tuy không bị chỉ
trích bao nhiêu, nhưng cả hai cũng đều cản trở sự phát triển tâm linh của ta
như nhau. Cả hai được nêu lên ở đây để chuẩn bị cho lòng từ bi đối với người
khác.
Chúng ta không cần đi đâu để hỏi ý kiến của ai. Tất cả chúng ta đều
có lương tâm, để tự biết hành động nào đáng chê trách. Nhưng chúng ta thường
bào chữa, "Đúng, nhưng tôi phải làm vì ... ", và chúng ta có cả một bảng
liệt kê của bao lý do: 'vì cô ấy quá tệ; vì anh ta không để tôi làm thế; vì lúc
nào họ cũng nói ..." Chúng ta cần ngưng lại ở nhận thức, "Đây là điều
đáng trách.” Chỉ cần nhận biết được rằng một y( nghĩ, một lời nói hay một hành
động nào đó của ta bất thiện là đủ. Cần biết, vì điều đó giúp ta tránh lập đi lập
lại hành động đó. Nhưng chúng ta không cần phải tự dằn vặt mình: "Tôi thật
là tệ. Tôi đã nghĩ suy, nói năng, hành động quái gở quá vậy?" Đó không phải
là từ bi. Chúng ta cũng cần được thương vậy.
Không cần phải bào chữa, cải chính. Lầm lỗi chỉ có nghĩa là khả
năng hành động của ta chưa được viên mãn, có nghĩa là ta phải vun trồng thêm khả
năng đó. Đây là mười lăm điều kiện tiên quyết để vun trồng tình cảm tình thương
người khác. Đức Phật chỉ bắt đầu nói đến lòng từ bi trong đoạn kinh kế tiếp.
Bài kinh tiếp nối như sau: "Đây là điều ta phải hằng ghi nhớ
trong tâm: Nguyện cho tất cả sinh linh tràn đầy muôn hạnh phúc, và nguyện cho tất
cả đều được thái bình an lạc... Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện này trong
tâm, thì ta sẽ không bao giờ có những tư tưởng chống báng lại ai.
Bài kinh tiếp nối bằng cách liệt kê đủ loại người:
Bất cứ chúng sinh nào ở trên cõi đời Dầu cho là loại yếu ớt hay mạnh
mẽ Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao không đồng đẳng, Hữu hình hoặc vô hình, Đã sinh hoặc
chưa sinh, Gần xa không kể xiết...
Chúng ta cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh, dầu đang sống
hay đang tìm đường tái sinh, hoặc là người hay súc sanh, bất kể hình thể, kích
cỡ nào, có tướng hay không tướng, ở bất cứ cõi giới nào, không ngoại trừ chi.
Chúng ta chỉ thấy được loài người, loài thú, nhưng điều đó không có nghĩa là
không còn có những hiện hữu khác. Không thể vì tầm nhìn của ta hạn hẹp mà cho rằng
không còn gì hơn thế nữa. Các chú ong, là một thí dụ, có thể nhìn thấy tia cực
tím, nhưng ta thì không. Chó có thể nghe những âm thanh rất nhỏ mà ta thì không
hề hay biết. Do đó những gì ta không thấy, không nghe, vẫn có thể hiện hữu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh tràn đầy muôn hạnh phúc ... Chúng ta
mong tất cả chúng sinh đều được sống trong hòa bình, hạnh phúc. Chúng ta tập
không làm hại đến chúng sinh có nghĩa là ta có lòng nghĩ đến người khác. Mục
đích của chúng ta là không làm hại ai. Nguyện cho tất cả được sống bình an, hạnh
phúc và nguyện cho tất cả được tự tại trong lòng. Nếu chúng ta luôn biết tư duy
như thế thì sẽ được bình an, tự tại nơi bản thân, và ở nơi những người ta tiếp
xúc.
Câu tiếp theo: Nguyện không ai làm hại ai, Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất mãn điều gì, Đừng mong ai đau khổ... Hãy nguyện cho chúng sinh không
sát hại lẫn nhau. Dầu cho chúng ta không chấp nhận một hành động nào đó, cũng
không có nghĩa là ta phải khinh rẻ người thực hiện. Hành động có thể bất thiện,
nhưng hãy nhớ có thể người ta hành động như thế vì bị vô minh che phủ. Nếu chúng
ta miệt thị người khác, ta sẽ tạo ra ác nghiệp cho mình. người khác đã hành động
như thế cũng đã quá đủ.
Như người mẹ hiền hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa
con duy nhất của mình, chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với
tất cả chúng sanh trong vũ trụ... Chúng ta hãy tương tượng mình như mẹ hiền của
tất cả chúng sinh - và cũng có thể lắm chứ trong những kiếp quá khứ - có thể
chúng ta sẽ biết phải tiếp xúc với người khác, với tất cả chúng sanh, không trừ
một ai, như thế nào. Đây là những lời giáo huấn của Đức Phật, và Ngài đã khai
thị cho chúng ta như những lời chỉ lối, dẫn đường. Đức Phật đã nói, nếu chúng
ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ, làm cha của ta trong hằng
hà sa số kiếp, nối tiếp nhau, thì xương đó có thể bao quanh trái đất này không
biết bao nhiêu lần. Nếu chúng ta đã có nhiều cha, nhiều mẹ như thế, thì chúng
ta cũng có thể là cha, là mẹ của bao đứa con. Nếu chúng ta có thể nghĩ một cách
rộng rãi bao trùm vũ trụ, thay vì chỉ với một vài đứa con của mình ở nhà, thì
ta có thể trải rộng tình thương đến cho biết bao nhiêu người. Nếu tất cả nhân
loại đều là con cái của ta, dĩ nhiên ta không thể mong mỏi tất cả đều theo ý của
ta muốn, chúng phải như thế này, hành động như thế kia. Tất cả đều không phải
'của tôi.” Nếu chúng ta có thể tư duy như thế thì những cái ta coi là 'cái của
tôi' hẳn là sẽ giảm bớt. Người mẹ sẽ hy sinh thân mạng để che chở cho đứa con một
của mình, Đức Phật đã dạy. Chúng ta cần nên đối với mọi người bằng tấm lòng của
người mẹ như thế.
Điều đó dường như không thể thực hiện được, nhưng đó là những lời
khai thị, giúp ta nhận ra rằng chúng ta rất thiếu tình thương dành cho tha
nhân. Điều này càng rõ ràng hơn, nếu như ta so sánh tình thương mình dành cho
con mình với tình thương dành cho con của người hàng xóm. Nói gì đến tất cả
chúng sanh trên thế giới này? Nhưng cũng không phải là không thể nào ươm trồng
sự quan tâm, chăm sóc, thương yêu, hỗ trợ cho tất cả chúng sanh, nhất là những
người đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo.
Đức Phật mỗi sáng đều toạ thiền, lúc đó Ngài thường phóng chiếc
lưới từ bi ra ngoài. Với thiên nhãn của mình, Ngài sẽ cứu vớt chúng sanh nào có
thể cứu vớt được. Sau đó Ngài đến với người ấy và truyền Pháp cho họ. Ngài đã
hoằng pháp như thế trong bốn mươi lăm năm, đi trên bao lộ trình để đến với
chúng sanh. Đó là lòng từ bi của đấng Giác ngộ. Chúng ta cũng có thể phát triển
tình mẫu tử đến với những ai đang khổ đau, cũng như Đức Phật đã nhìn thấy họ
khi Ngài phóng chiếc lưới từ bi.
Từ tâm siêu việt, đến cõi trời, ngạ quỷ hay khắp trong vũ trụ... Tình thương trải rộng
đến tất cả chúng sanh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô cấu uế của hồng trần.
Đó là tâm tỉnh thức trong thiền định. Tâm bình thường lúc nào cũng bị phiền não
ngậm nhấm như chú chuột ngậm nhấm trên thân gỗ mục. Khi tâm đó tràn đầy lòng từ
và bi mẫn, nó chỉ gắn chặt vào đấy, và buông bỏ những suy nghĩ tầm thường. Tâm
đó không còn bị phiền não quấy nhiễu.
Không hẹp hòi, oan trái, Không hờn giận căm thù... Nhưng không có
nghĩa là tất cả mọi vấn đề vụn vặt đều đã biến mất. Chúng sẽ không bao giờ biến
mất. Nếu bạn thử nhìn lại trong giây lát, bạn có nhớ trong hai mươi năm qua, có
ngày nào mà không có việc khiến bạn phải bận tâm? Tâm không phiền não, không chứa
đựng sân hận vì tâm không phiền não tràn đầy hạnh phúc, mà tâm bình an, hạnh
phúc không thể có chỗ cho lòng oán thù.
Khi đi, đứng, nằm, ngồi Bao giờ còn thức tĩnh Giữ niệm từ bi này,
Thân tâm thường thanh tịnh
Dầu ở đâu, đi, đứng, ngồi hay cả khi nằm mà chưa ngủ, ta nên ươm
trồng lòng từ bi. Chánh niệm về lòng từ bi như một người mẹ đối với tất cả
chúng sanh. Tâm hồn ta sẽ bị giới hạn trong tình thương dành cho một, hai hay
ba, hay bốn, năm người, trong khi quanh ta có đến hơn bốn tỉ người cần được
thương yêu.
Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn biểu lộ tình cảm
mình với người khác, vì ta biết tình cảm của mình đối với con cái ra sao. Cũng
như ta vẫn nhớ đến cách cư xử của chính cha mẹ mình. Với những kinh nghiệm cá
nhân này làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trải rộng tình thương xa hơn
nữa.
Phạm hạnh chính là đây... Đời sống thánh thiện ngay trên mặt đất
này. Điều này tạo cho ta cảm giác hoàn toàn tự tại, yên ổn, an toàn cũng như tất
cả bao trạng thái tốt đẹp khác nữa. Được thế giúp tâm ta dễ đi vào định, là một
trong mười một điều lợi của tâm từ bi. Đó là một cách sống thánh thiện ngay
trong hiện tại. Ta không cần phải chờ đợi đến khi ta đã vào cõi thiên mới được.
Ai xả ly kiến thủ
Có giới hạnh nghiêm trì Đạt chánh trí viên mãn, Không ái nhiễm dục
trần, Thoát ly đường sinh tử
Những lời trên dường như diễn tả một vị A-la-hán. Khi ta sống
không còn chấp kiến... Bất cứ là gì! Chánh kiến duy nhất là Tứ Diệu Đế, đưa ta
đến giác ngộ. Ngoài ra quan điểm chỉ là quan điểm, không dựa trên những kinh
nghiệm đích thực.
Nazarudin, một vị thần Sufi vĩ đại, đã từng nói: "Đừng nhọc
công tìm kiếm giác ngộ. Chỉ cần biết buông bỏ quan điểm, ý kiến.” Buông bỏ kiến
hoặc không có nghĩa là đánh mất sự phận biệt phải trái trong hành động của ta.
Nhưng nhiều người trong chúng ta chứa chấp những quan điểm, ý kiến tự trói buộc
mình vào ngục tù của tâm. Buộc họ, cũng như người chung quanh phải nói năng,
hành động, dáng vẻ như thế nào, và thế giới phải như thế nào...
... Có giới hạnh nghiêm trì, đạt chánh trí viên mãn ... Tuệ giác
tròn đầy đạt được là nhờ ở nền tảng của các đạo đức vẹn toàn.
Không ái nhiễm dục trần... Mọi ái dục đều được đoạn trừ, không
còn ham muốn điều gì, thì không còn khổ não. Đó là cánh cửa mở đến niết bàn, giải
thoát hoàn toàn mọi mong cầu.
Không còn phải luân hồi sinh tử. Không tái sinh! Bài kinh này dẫn
ta đi từ những trạng thái bình thường của khả năng, chất phác, ngay thẳng và
khiêm cung, đến giác ngộ chỉ trong vài vần thơ ngắn ngủi. Trước hết ta phát tâm
từ bi thương yêu đến tất cả chúng sanh như thể thương yêu con cái của mình, nhờ
đó giúp ta đi vào thiền định, vì từ bi là một trong ba trụ thiền. Khi luôn có
tâm chánh niệm, ta có mặt 'ngay trong giờ phút này và ở tại nơi đây", nên
ta không còn chấp kiến về ngã, về nhân, về thế giới bên ngoài ta. Dựa trên nền
tảng đạo đức đó, ta sẽ có được tuệ giác và giác ngộ. Một con đường thẳng tắp,
không lối ngang, ngã rẽ, không phải luận bàn gì nữa, chỉ cứ thế mà thực hành.
Đó là những điểm trọng yếu của bài kinh quen thuộc này, lời kinh
quen thuộc, nhưng hành động thì khó làm. Đức Phật đã truyền cho chúng ta những
lời dạy rõ ràng để thanh tịnh hoá tâm, chỉ cho ta cách xếp đặt cuộc đời mình
trong ngoài vẹn toàn. Tất cả đã bày sẵn cho ta nắm bắt, nhưng không ai có thể
làm thay cho người khác. Mỗi người phải tự dấn thân.
Xưa có một người tìm gặp Đức Phật để tham vấn. Ông ta nói rằng đã
nghe pháp của Phật nhiều năm nay, trong thời gian đó, ông ta đã được gặp gỡ với
nhiều vị tăng ni, đệ tử của Đức Phật. Ông ta đã kết thân với một số họ, và thấy
rằng có người đã hoàn toàn thay đổi. Họ đã trở nên từ bi, tử tế, thông thái,
kiên trì hơn, nhưng cũng có nhiều người không thay đổi gì cả. Lại có người còn
đánh mất tính kiên nhẫn, không còn thương yêu hay tử tế với người khác nữa.
Trong khi tất cả các vị tăng ni này đều cùng nghe những bài thuyết pháp giống
nhau. Ông ta muốn biết tại sao lại như thế.
Đức Phật bèn hỏi người đó: "Nhà ngươi ở đâu?.” Người đàn ông
trả lời: "Ở Rajagaha.” Đức Phật lãi hỏi: "Thỉnh thoảng ngươi có về
thăm lại Rajagaha?" Người kia trả lời: "Tôi vẫn thường trở lại nơi
đó, vì tôi có công việc làm ăn và gia đình ở đó.” Đức Phật lại hỏi: "Ngươi
có biết đường về Rajagaha?" Người ấy trả lời: "Tôi biết rõ đến độ có
thể đi trong đêm. Tôi không cần phải nhìn nữa, tôi biết đường quá rõ.” Đức Phật
lại nói: "Nhưng nếu có người muốn đi Rajagaha, ngươi có thể chỉ lại
không?" Người kia trả lời: "Nếu Ngài thấy ai cần giúp, cứ bảo họ đến
tìm tôi, vì tôi có thể chỉ họ rõ ràng. Tôi đã đi trên con đường ấy quá nhiều lần.”
Đức Phật nói: "Ta tin ngươi. Nhưng nếu ngươi chỉ cho họ đường đi đến
Rajagaha, nhưng họ cứ ở mãi trong thành Benares, đó có phải do lỗi của người
không?" Người kia trả lời: "Dĩ nhiên là không. Tôi chỉ là người chỉ
đường thôi.” Đức Phật trả lời: "Ta cũng thế. Ta cũng chỉ là người chỉ đường.”
Tất cả những gì các bạn đã nghe, đã ghi chú hay đã hiểu, chỉ là
những cột mốc, bảng tên đường cho bạn biết hướng đi đúng sai. Nhưng nếu chúng
ta không bắt đầu khởi hành thì ta sẽ mãi là người lữ hành tại chổ. Bài kinh về
lòng từ bi cần được thực hành. Không có lời giả dối trong đó, mỗi chữ đều có ý
nghĩa, đều rõ ràng.
Đức Phật lại nói: "Này các tỳ kheo, nếu tất cả những lời ta
nói không đem lại lợi ích cho các ngươi, ta đã không bảo các người nghe theo.
Điều này có thể thực hiện được.” Đức Phật bảo chúng ta có thể phát khởi tâm từ
bi như mẹ hiền đến với tất cả chúng sanh. Cũng như chúng ta có thể chứng ngộ, nếu
không Đức Phật đã không khuyên tất cả đệ tử của Ngài như thế. Một điều chắc chắn
rằng chúng ta có thể chỉ phát thiện tâm, chỉ tràn đầy bi mẫn. Ý nghĩ quan trọng
hàng đầu. Cần phải suy tư, khởi ý như thế nào, trong kinh này đều đã nói rõ.
Chúng ta suy nghĩ như thế nào sẽ khiến ta phải chịu phiền não, âu lo, bất ổn
hay bình an, hạnh phúc.
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an.
Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân. Mà là những điều ta cần làm
cho chính bản thân, đó là động lực thúc đẩy ta phải hành động. Đúng thế, vì chỉ
có ta mới có thể tự sửa đổi lấy mình. Tha nhân sẽ được hưởng phúc lợi từ lòng từ
bi của ta, chỉ là thứ yếu. Điểm chính yếu ở đây là tâm thanh tịnh của ta, đó mới
là mục đích chính. Trước hết ta cần phát khởi tâm từ bi, sáng suốt. Hai đặc
tính này đi với nhau, vì tâm tràn đầy tình thương không thể có chỗ cho sự hỗn
loạn. Tâm không xáo trộn là tâm có thể tư duy, nói năng rõ ràng.
Khi ta đã quyết thanh tịnh hoá tâm, ta có thể tận dụng bài kinh
này để làm thước đo: "Tôi đang làm gì? Tôi có đang hành động theo lời kinh
dạy?" Đó là một trong những cách để biết chắc rằng chúng ta không bị lạc
đường. Không cần phải tự trách mình. Chúng ta có thể chuyển đổi tâm mình. Không
khó khăn gì. Chúng ta càng tinh tấn hành thiền, việc đó càng dễ thực hiện. Khi
đó tâm ta trở nên mạnh mẽ, khiến ta có thể chuyển hoá tâm theo ý mình. Người mà
có thể làm chủ mọi tư tưởng của mình, là người đã đạt được tri kiến.
0 Comments