Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Vô Ngã, Vô Ưu – Ayya Khema
Being Nobody, Going Nowhere
Diệu Liên – Lý Thu Linh
Chương 9. Bốn Hỷ Lạc
Chương 9. Bốn Hỷ Lạc
Tất cả chúng ta đều kiếm tìm hạnh phúc, nhưng rất ít người bắt được.
Hai điều trong Tứ diệu đế của Đức Phật đã nói rằng hạnh phúc thế gian là ảo tưởng,
vậy mà ta chẳng bao giờ từ bỏ hy vọng tìm thấy nó. Tuy nhiên điều đó cũng không
hoàn toàn xấu, vì nếu không có lòng mưu cầu hạnh phúc, ta sẽ trở nên thối chí,
nản lòng khi không thể tìm được hạnh phúc hoàn toàn.
1. Hỷ Lạc Do Các Cảm Thọ Mang Đến
Đức Phật nói về bốn loại, bốn cấp bực của hạnh phúc. Thứ nhất là
dục giới, hỷ lạc do
sự cảm thọ của các giác quan mang đến. Đức Phật ví đó giống như một con bò chỉ
có da, trong khi bọn ruồi đậu thì cố tìm thịt sống, nên luôn tạo ra sự đau khổ.
Đó là một cái nhìn sâu sắc về ngũ dục. Đức Phật cũng nói về ngũ dục là phương
tiện đầu tiên đem lại cho ta hạnh phúc. Và phần đông chúng sanh trụ ở cấp bực
này. Nhưng không phải lúc nào ta cũng nắm bắt được dục lạc ta tìm kiếm, ngay
như ta có tìm được, thì nó cũng đến rồi đi, do đó không thể có hạnh phúc trường
cửu qua sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. Khi sự xúc chạm đem lại cảm giác
dễ chịu ta thấy hạnh phúc. Nhưng cũng có những sự xúc chạm, đem lại khó chịu,
khi cơ thể ta không được thoải mái hay khi ta không được nghe những lời mát
lòng mà ta muốn được nghe, không được nếm những mùi vị ta ưa thích, hay ngửi phải
mùi hôi thối, hay nhìn thấy những cảnh ta không thích. Không ai thoát khỏi những
cảnh này. Không ai có thể sống mà không kinh qua những xúc chạm gây khó chịu.
Nhưng cũng không có ai đi qua cuộc đời mà không kinh qua những cảm
xúc dễ chịu. Nếu có nghiệp thiện, ta có 50-50 cơ hội. Phân nửa thời gian ta được
những xúc chạm dễ chịu, phân nửa không. Phần đông chúng ta tìm cách để tăng thời
gian của xúc chạm dễ chịu lên, và muốn chúng xảy ra 100 phần trăm lần, là điều
không thể có. Không thể nào có chuyện đó, nhưng người ta vẫn theo đuổi chúng.
Và lại trách cho hoàn cảnh bên ngoài khi cảm xúc khó chịu hay cảm giác đau đớn
dấy khởi làm cho ta đau khổ. Lý do thật sự, dĩ nhiên, nằm bên trong chúng ta,
vì chúng ta phản ứng lại với các cảm xúc.
Người càng trong sạch, càng có nhiều lạc thọ. Một tâm hồn trong
sáng sẽ tìm thấy niềm vui ở những điều nhỏ nhặt nhất. Một ngày đẹp trời, thảm cỏ
xanh, một cuộc đàm thoại thú vị.
Người không trong sạch có lẽ chẳng để ý đến những thứ này. Có thể
họ chẳng bao giờ biết ngắm bầu trời đẹp hay một thảm cỏ xanh. Có lẽ họ đi tìm cảm
xúc ở những thứ tầm thường hơn. Rượu, thuốc phiện, đồ ăn ngon, gái đẹp, có lẽ
là những thứ mang đến cho họ lạc thú hơn.
Nếu các cảm xúc thanh tao, vô hại thì đâu có gì là xấu. Tuy nhiên
Đức Phật cho rằng chúng nguy hiểm vì ta dễ biến chúng thành mục đích của đời sống,
con đường ta phải đeo đuổi, ta cố gắng tìm thêm, tìm thêm và giữ chúng lại bên
ta mãi mãi. Đó chính là sai lầm của ta, vì điều đó không thể thực hiện được.
Không có cảm thọ nào vĩnh viễn cả. Thật ra nếu chúng vĩnh viễn thì chưa chắc
chúng còn cho ta những cảm giác thích thú. Hơn nữa cũng không thể chắc là ta có
thể tìm được các khoái cảm. Việc tìm kiếm làm chúng ta mất thì giờ, sức lực, ta
sẽ không còn thì giờ để làm những việc có ý nghĩa hơn.
Thân có các giác quan. Điều đó hiển nhiên. Tuy nhiên nếu chánh niệm,
ta có thể thấy rằng các cảm giác dễ chịu do sáu căn mang lại đều là của báu của
người ngu. Chúng lấp lánh, nhưng chẳng có giá. Ta có thể nhìn ngắm vẻ hào
nhoáng đó, nhưng chớ bám víu vào chúng. Vậy mà chúng sinh vẫn cứ luôn đau khổ
vì không thể có được những gì do sáu căn đem lại.
2. Hỷ Lạc Của Chư Thiên
Hạnh phúc thứ hai là hạnh phúc như ở cõi Trời. Nói thế không có
nghĩa ta phải thành thánh, hay phải chết trước đã, mới được vào cõi Trời Dục Giới.
Điều đó xa vời, không liên quan gì đền đời sống hiện tại của ta. Nhưng thật ra,
người đã vun trồng được bốn đặc tính cao quý (tứ vô lượng tâm): từ, bi, hỷ và xả sẽ được hưởng niềm vui của cõi Trời Dục
Giới. Thứ hạnh phúc đó được so sánh với sống trong thiên đàng ở cõi giới. Thứ hạnh
phúc đó không tùy thuộc vào ngũ dục mà chỉ tùy thuộc vào tâm ta. Điều kiện duy
nhất là phải thanh tịnh hoá tâm ta để có thể chứa đựng được từ, bi. Cả từ và bi
là hai đặc tính của trái tim, cũng như thông minh là đặc tính của trí tuệ,
chúng có thể được vun trồng, nuôi dưỡng. Khi ta đạt được những điều đó, thì hạnh
phúc, an lạc sẽ ở tại tâm. Tha nhân cũng sẽ được nhờ, nhưng ta là người được hưởng
quả an lạc trước tiên, vì lúc đó tâm ta hoàn toàn không phụ thuộc vào những gì
xảy ra quanh ta. Người khác nói gì, làm gì, chuyện gì xảy ra hay không xảy ra
trên thế giới này, đều không ảnh hưởng đến ta. Khi tim ta đã được ươm trồng
thanh tịnh với từ, bi, thì không có gì có thể đụng chạm đến nó. Có một sự an lạc,
hài hòa, dễ chịu, một cảm giác an toàn luôn ngự trị trong tâm trí ta.
Niềm vui này thanh cao hơn so với niềm vui do ngũ dục mang đến. Tự
nó không dẫn đến sự giải thoát, nhưng chắc chắn nó là hành trang cần thiết trên
đường đến giải thoát.
Từ và bi, tự chúng không sinh ra cái thấy bên trong. Chúng chỉ
làm lắng dịu những ngọn sóng tình cảm. Khi những làn sóng của đau khổ, buồn phiền,
lo âu, sợ hãi, ganh ghét, tị hiềm, hối hận, cuối cùng lắng xuống thì mặt nước sẽ
trong xanh, không gợn sóng, giống như một tấm gương, tấm gương của tâm. Tấm
gương đó giúp ta thấy mọi việc rõ ràng. Không có sự vun trồng những tình cảm tốt
đẹp đó, ta không thể phát triển hơn. Ta có thể hiểu Pháp, nói Pháp nhưng ta
không thể đoạn trừ đau khổ. Những ngọn sóng tình cảm là vực chắn. Chúng không
chỉ ngăn trở cái nhìn của ta được rõ ràng, mà còn che khuất chính con đường ta
phải đi. Khi còn u mê, mờ mịt, ta sẻ không biết mình đang đi đâu. Thậm chí có
thể quên rằng mình đang dự vào một cuộc hành trình nào đó.
An lạc ở cõi Trời Dục Giới không tùy thuộc vào luân hồi, sinh tử.
Nó có thể xảy ra ngay ở đời sống hiện tại. Đó là sự tu tâm, và ai cũng có thể
tu được. Không cần phải theo khóa thiền nào, hay phải là người đặc biệt gì, ai
cũng có thể làm được. Đây là một niềm vui có thể tìm thấy do chính sự tu tập
không cần phải tìm kiếm đâu xa.
3. Hỷ Lạc Qua Nhiếp Tâm
Niềm vui thứ ba đến từ sự nhiếp tâm trong thiền định. Niềm vui
này cũng chỉ có được khi ta đã thanh tịnh hóa hành động của mình, đã có được sự
độ lượng, lòng từ ái trong tâm hồn. Nó cũng không đòi hỏi ta phải là người hoàn
toàn, vì chỉ có bậc A la hán mới được như thế. Nó chỉ đòi hỏi chút khoáng đạt
trong tâm.
Người tu thiền thường tìm được niềm vui như thế. Nhưng ta cần phải
huân tập sự chú tâm, thường xuyên thực hành tọa thiền để đạt được sự lắng sâu
trong thiền định. Có rất nhiều mức độ của niềm vui, thanh thoát, dễ chịu khi
thiền định. Chúng giúp cho tâm được an lạc ngay cả sau khi đã xả thiền.
Người mà có thể lắng tâm trong thiền định và tìm được hỷ lạc trong đó là người có thể tìm thấy niềm
vui ngay cả trong những hoàn cảnh bất như ý. Người đó biết rằng bất cứ lúc nào
mình cũng có thể được sự an lạc của trong thiền định. Biết được như thế, tạo
cho họ cảm giác dễ chịu trong tâm vì không có gì còn là quan trọng với họ nữa.
Khi một người có thể nhập định lúc nào họ muốn, trong bao lâu tùy họ, thì đó là
thực tại của họ, không phải những tranh giành, cãi cọ, chiến tranh, tương lai,
quá khứ làm họ bận tâm như bao nhiêu người khác. Những thứ đó không còn quan trọng
đối với họ. Thực tại trụ ở trong niềm vui của thiền định.
Nhiếp tâm hay chánh niệm cũng sửa soạn cho tâm. Nó mang đến cho
tâm không những chỉ khả năng hạnh phúc, mà cả khả năng duy trì niềm vui đó. Tâm
có thể ổn định theo ý mình, là tâm kiên cố. Tâm chúng sinh khó ổn định. Nó luôn
dao động mà không cần một động lực nào tác khởi, vì đó là bản thể của nó. Nó
không đủ sức mạnh để xuyên qua bức tường ảo tưởng. Trước bất cứ trở ngại nhỏ
bé, hoặc một lời chê bai nhẹ nhàng, hay hơi khó chịu của cơ thể, tâm yếu đuối
như bún lập tức tan thành mãnh vụng. Nó còn làm được gì khác hơn chứ?
Tâm kiên cố cứng như đá tảng, không thể lay chuyển. Một tảng đá
kiên cố chắc chắn là một dụng cụ tốt hơn cọng bún để đập bể bức tường. Tâm kiên
cố sẽ không lay chuyển trước những khó khăn nào. Nó có đủ sức mạnh để xuyên qua
thực tại của cuộc sống, tiến đến một thực tại tuyệt đối hơn.
Có tám mức độ của sự nhiếp tâm trong thiền định, giống như tám
căn phòng trong một ngôi nhà. Nếu cuối cùng ta đã có thể tìm được đúng chiếc
chìa khóa để mở căn phòng thứ nhất ở cửa ngoài, thì không có lý do gì ta không
thể đi vào những căn phòng khác. Không có gì khó để tìm ra chìa khóa vào căn
phòng đầu tiên. Chìa khóa là sự chủ tâm vào hơi thở, và cánh cửa phòng ngoài được
mở khi ta tiếp tục hành thiền với lòng kiên trì và quyết tâm. Ta sẽ không bỏ nửa
chừng ‘À, đủ rồi, chân ta đã đau rồi’, hay ‘Có ích gì?’ hay ‘Cho kiếp sau à?’
hay ‘Khó quá cho tôi’, hay bất cứ lý do nào khác.
Đức Phật dạy "Kẻ ngu nói: ‘Sớm quá. Trể quá. Nóng quá. Lạnh
quá. No quá. Đói quá’.” Cánh cửa đằng trước mặt chỉ chờ ta mở ra. Ta lại có
chìa khóa. Và ta chỉ cần tra chìa khóa vào ổ khóa. Khi cửa mở, ta sẽ thấy các
phòng đều hoành tráng. Sự hoành tráng ở ngay trong tâm trí ta nhưng hiện giờ nó
còn bị khóa. Ta sẽ không thể mở khoá nếu như ta không biết tu thiền. Nhiều người
không bao giờ có thể mở được khóa vì họ không biết chìa khóa là gì hoặc không
biết có một cửa vào như thế. Chúng ta rất may mắn được biết lối vào, và có thể
cửa đã hé mở cho ánh sáng tràn vào.
Khi sự nhiếp tâm đã được kiên định một thời gian, tâm sẽ trở nên
trong sáng, và thân thanh tịnh. Mỗi giây phút nhiếp tâm là mỗi giây phút thanh
tịnh. Những ô trược mà ta thường đắm chìm, mang lại cho ta bao đau khổ, phiền
não được gạt sang một bên trong thiền định. Càng có cơ hội để gạt chúng sang một
bên, chúng càng khó thể trở thành thói quen của ta. Ta càng thường có thể nhiếp
tâm, ta càng dễ lãng quên chúng. Lúc đó việc đạt được một tâm trong sạch, sáng
lạng chỉ là việc dễ dàng thôi.
Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng những cảm giác dễ chịu. Những cảm giác
này dấy khởi vì tâm ở trong trạng thái đó không bị quấy nhiễu. Điều này chứng tỏ
cho chúng ta thấy là nếu ta không phiền não, và giữ được tâm luôn trong sáng,
thanh tịnh thì ta luôn có những cảm giác thoải mái, dễ chịu.
Ở đây ta đã biết về những thành quả ta có thể đạt được, điều đó
làm ta muốn được ở trong trạng thái đó lâu dài. Niềm mong ước lành mạnh, lợi
ích dần dần đưa ta đến trạng thái không còn mong cầu, do đó không còn đau khổ,
thất vọng.
Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng cảm giác dễ chịu, rồi dần dần đưa ta đến
trạng thái an lạc, hạnh phúc. Điều này chứng tỏ một lần nữa là tâm thanh tịnh
chỉ biết có an lạc. Khi có phiền não, thì có ô trược. Hai thứ này đi với nhau
như hình với bóng. Người an lạc không mong đạt được hạnh phúc qua các căn trần
vì họ biết chúng rất ngắn ngủi. Người hạnh phúc thật sự là người luôn an lạc mà
không phụ thuộc vào ngoại cảnh. Người như thế sẽ dễ dàng nhiếp tâm thiền định,
để tìm cho tâm mình một chỗ an trú thanh tịnh, không còn phiền não dấy khởi.
Còn phiền não là do tâm ta còn chưa thanh tịnh. Khi có phiền não dấy khởi, nếu
ta nghiệm xét sẽ thấy rằng do có sự ô trược ngầm ẩn chứa trong tâm. Nếu không
tìm ra được điều đó, thì do ta chưa thật sự soi xét lại mình.
Khi ở trong thiền định, tâm không còn bị năm chướng ngại quấy nhiễu.
Khi các cảm giác dễ chịu, an lạc dấy khởi thì tâm hỷ, xả cũng theo sau. Xả bỏ đưa đến cảm giác
không còn ham muốn điều gì. Có người còn có cảm giác mình hoàn toàn không còn
tham ái dục nữa nhưng đó chỉ là ảo giác. Dầu gì, ít ra trong những giây phút
đó, lòng ham muốn cũng bị hoại diệt.
Đó là một kinh nghiệm quí báu khi đạt đến trạng thái không còn
tham dục. Đó là một niềm hạnh phúc tuyệt đối. Một hạnh phúc đáng kiếm tìm. Khi
đã kinh qua kinh nghiệm đó, ta sẽ biết được mình phải theo đuổi điều gì. Không
phải là theo đuổi để được việc gì. Mà theo đuổi để cởi bỏ hết mọi thứ. Đây là
điều nhiều người đã lầm tưởng một cách khá buồn cười. Khi mới bắt đầu tọa thiền,
ta mong tìm được an bình, vui vẻ, hạnh phúc tuyệt vời, là những điều ta chỉ có
thể có được khi ta đã buông bỏ những thứ khác. Như chấp ngã và tham dục.
Khi ta đã được nếm - dầu chỉ trong giây phút - niềm hạnh phúc tuyệt
vời của lòng không tham dục, ta biết mình phải làm gì. Không phải để đuổi theo
sự hỷ lạc, mà cái ta cần ươm trồng chính là sự cởi
bỏ, buông xả. Không có sự buông xả, đời sống là một chuỗi dài của ham muốn. Sự
buông xả là câu trả lời cho mọi chứng bệnh đạt thành tích, dầu trong thế gian
hay trong đời sống tu hành. Cố gắng để đạt được cái gì đó trong đời sống tu
hành thì cũng mê muội như cố gắng đạt được điều gì trong đời sống thế gian.
Không có gì cần đạt được. Chỉ cần tập buông xả. Càng cởi bỏ nhiều ràng buộc với
chấp ngã, lòng ham muốn và những thứ tương tự, thì hạnh phúc tuyệt vời càng dễ
đến hơn.
Niềm an lạc do thiền định mang đến dựa vào sự thanh tịnh. Cũng vậy,
trong đời thường, nếu ta biết gieo trồng thanh tịnh, thì ta cũng sẽ được an
vui. Tuy các cảm giác dễ chịu, an lạc, xả bỏ trong thiền định thâm sâu hơn các
lạc thọ thế gian, nhưng trước hết ta phải thanh tịnh trong đời thường, rồi ta mới
có thể tìm được sự thanh tịnh trong thiền định. Chúng đi đôi với nhau. Ta càng
khó tìm được các cảm giác dễ chịu khi tham thiền, thì ta càng phải nổ lực thực
tập thanh tịnh hoá thân tâm hơn.
Niềm vui trong thiền định được coi là thành quả tối ưu mà ta có
thể đạt được. Đó là một sai lầm, vì niềm vui đó cũng chỉ tạm thời, và không
hoàn toàn độc lập, hay vô điều kiện. Có nhiều điều kiện kèm theo như là: phải
có nơi yên tịnh, thân thể phải khỏe mạnh để có thể ngồi yên, và có khả năng nhiếp
tâm. Dầu niềm vui này không phụ thuộc vào căn trần bên ngoài, nó vẫn còn phải
tùy thuộc vào các điều kiện của thân, tâm. Niềm vui đó chưa phải là tuyệt đối.
4. Hỷ Lạc Qua Kiến Tánh
Niềm hạnh phúc thứ tư, ở cấp bậc cao nhất, là niềm vui của nội
tâm hay là cái thấy, còn gọi là kiến tánh. Kiến tánh, trong ngôn từ Phật học,
được dùng khi nói đến sự hiểu biết về vô thường, phiền não và vô ngã. Nếu ta có
thể thấy rõ được bản tánh của một trong ba đặc tính này, thì ta biết tất cả, vì
chúng liên hệ nhau.
Niềm hạnh phúc tuyệt vời của kiến tánh có nghĩa là ta đã dẹp bỏ
được chấp ngã. Khi ta có thể buông bỏ cái tôi, thì ta sẽ nhẹ nhàng, giải thoát
xiết bao.
Ramana Maharshi, một hiền triết ở miền Nam An Độ, so sánh những vọng
tưởng về Ngã chấp giống như một người hành khách trên tàu hỏa. Đã bước vào toa
rồi, người ấy cứ đứng ôm chặt các hàng lý trong tay, thay vì bỏ các hành lý vào
chỗ để hành lý. Cũng thế, dầu không cần thiết, ta luôn mang mớ hành lý nặng nề
của ngã chấp theo bên mình. Những vọng tưởng về ngã chấp làm ta thấy mọi việc đều
có vẻ đe dọa, tấn công ta, họa hoằng lắm thì bảo vệ ta, nhưng khó đối trị, như
ngọn núi ta phải vượt qua. Nó làm cho cuộc đời thêm khó khăn.
Các món phiền não, ô trược là lòng ham muốn, sân hận, yếu đuối,
lo âu, càn bướng, bám víu vào quan điểm riêng của mình. ‘Khi ta hoàn toàn buông
bỏ các quan điểm, ý kiến của mình, ta có thể nhìn thấy bản thể của mọi vật rõ
ràng hơn’, đó là đức tính của bậc A-la-hán. Với chúng ta, các quan điểm, ý kiến
chính là sự thất bại của ta. Khi ta bắt đầu ‘bảo vệ’ quan điểm, ý kiến của
mình, thì thực ra ta đang bảo vệ cho cái tôi của mình. Sự tranh cãi về một quan
điểm cho ta thấy rằng quan điểm đó không được thiết lập dựa trên kinh nghiệm.
Vì người ta không cần bào chữa cho kinh nghiệm. Giáo lý của Đức Phật dựa trên
kinh nghiệm mà có. Trong khi quan điểm dựa vào Ngã chấp. Cả hai (quan điểm và
Ngã) đều không phải là sự thật tuyệt đối.
Nhìn thấy rõ ràng tất cả những thăng trầm, biến đổi của vạn vật,
trong đó có bản thân chúng ta, giúp ta thấy rằng không có gì trong cõi đời này
đáng gìn giữ, bám víu. Nhờ có kiến tánh, ta không chống báng quan điểm của người
khác, tránh nẩy sinh ra bao nhiêu phiền phức trong cuộc đời. Mỗi người có quan
điểm riêng của mình. Không có gì tốt hơn là chúc phúc cho họ thay vì tranh cãi.
Sự bám víu vào quan điểm của mình cho thấy là ta vẫn chưa hiểu rõ tính cách vô
thường của sự vật. Nếu hiểu rõ được sự vô thường, ta sẽ không nói “Tôi thế này,
tôi thế nọ”, để có thể xem xét sự việc cẩn trọng hơn. Tôi là ai? Tôi có phải là
người sáng hôm qua được thiền định? Hay là người sáng nay toạ thiền mà cứ lo
ra? Là kẻ có tâm nghi hoặc hay người hết lòng tin tưởng vào Phật Pháp? Người
nào là tôi? Hay tôi là tất cả những người ấy? Nếu thé, tôi thật là hỗn tạp. Tôi
phải là thiên hạ, chứ không phải một người. Vậy thì ta phải chọn lựa: Tôi là tất
cả hay là không. Nếu không nhận là không, thì phải là tất cả. Thử tưởng tượng cả
trăm ngàn con người khác nhau trong một con người. Nói thế không phải là khuếch
đại đâu, trong suốt cuộc đời ta đã có hằng triệu tư tưởng, ý nghĩ, cảm giác,
quan điểm, phản ứng khác nhau, đó là chỉ một cuộc đời. Nếu ta chọn làm tất cả
thì cuộc đời ta sẽ phức tạp, đau khổ hơn nếu ta không là ai trong họ cả. Vậy
thì tại sao không chọn cái không?
Kiến tánh không dung chứa Ngã chấp. Tại sao? Vì ‘cái Tôi’ muốn hiện
hữu. Muốn được là gì đó. Là gì? Là ai? Ở đâu? Để làm gì? Tất cả chỉ là các quan
điểm, được điều kiện hóa qua quá trình tư duy của ta. Khi ta không chấp vào bất
cứ điều gì, an lạc sẽ đến với ta. Ta hạnh phúc trong sự biết chấp nhận. Không
có gì cần được hoàn thành, tạo tác hay thay đổi. Tất cả đều như tự thể của
chúng.
Bốn mức độ của niềm vui khởi đi từ ngũ dục đến kiến tánh là một
quá trình thanh tịnh hóa liên tục. Tất cả chỉ có thể chứng nghiệm bằng kinh
nghiệm của bản thân. Vì lẽ đó sự tu tập cho đời sống nội tâm phải được ưu tiên.
Ta không thể lơ là, chểnh mãng dù đang ở đâu, làm gì: ở bãi biển, trong thiền
viện, đang lái xe, hay ở trên máy bay. Không được ngơi nghỉ. Để thoát ra khỏi
ngũ dục, ta cần tập nghĩ đến việc phục vụ cho người khác trước tiên. Nghĩa là
tu tập từ bi. Phúc vụ cho người khác nghĩa là tập quên mình. Phục vụ người khác
có thể bằng nhiều hình thức. Giúp người rửa tay chân hay giúp người tu thiền,
cũng là phục vụ, không có gì khác nhau. Phục vụ là lòng từ. Từ tâm là phục vụ.
Tâm định có được là nhờ lòng từ. Một trong mười một điều lợi ích khi có từ tâm
là tâm ta sẽ vào định dễ dàng.
Không nên coi định như là một mục đích, cứu cánh của ta. Đó chỉ
là phương tiện. Phương tiện nuôi dưỡng tâm để quán sát thực tại. Có hai loại thực
tại: tương đối và tuyệt đối. Ai cũng biết thực tại tương đối. Trong đó có đàn
ông, đàn bà, trẻ, già, giàu, nghèo, ngu, khôn. Có thú vật, cây cỏ, bông hoa,
trăng sao, thiên đàng và tất cả những thứ mà ta nghĩ sẽ mang lại cho ta hạnh
phúc. Trong thực tại tuyệt đối, không có gì giống như thế. Chỉ có các bản thể vật
chất của những thứ tạo ra bởi tâm. Tất cả chỉ có thế. Không có cái gọi là
‘tôi’, là ‘anh’. Không có gì - chỉ có bản thể sự vật luôn biến đổi. Ngay đến vũ
trụ quanh ta cũng thay đổi. Và chúng ta cũng thế.
Tâm định, an lạc, hạnh phúc là tâm có thể chấp nhận được thế giới
luôn biến đổi này và xử đụng nó như thế nào để có ích. Tâm không ổn định sẽ
không thể chấp nhận những việc bất như ý, họ nói: “Nhưng tôi muốn được hạnh
phúc, sung sướng.” Đó là tâm của đa số chúng sanh. Tâm luôn an lạc không phụ
thuộc vào ngoại giới, là tâm có thể nói: "Đây là sự giải thoát ra khỏi những
khổ đau. Đây là hạnh phúc thực sự.” Tâm đó sẽ nhìn rõ được thực tại tuyệt đối của
tất cả những gì đang xảy ra trên thế giới, không phải bám víu, nương tựa vào bất
cứ điều gì, không phải trở thành gì, hay là gì đó trong đời. Tâm chỉ làm những
gì cần thiết phải làm ở một thời điểm nào đó, rồi buông xả.
Niềm vui kiến tánh không phải là sự tưng bừng, oà vỡ. Đó là thứ hạnh
phúc chứa đựng sự bình an, không phải có được do tham cầu, mong ước. Khi không
còn vọng tưởng, tâm chân thật sẽ nhận biết được điều đó.
0 Comments