Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Vô Ngã, Vô Ưu – Ayya Khema
Being Nobody, Going Nowhere
Diệu Liên – Lý Thu Linh
Chương 2. Ảnh Hưởng của Thiền đến đời sống chúng ta
Chương 2. Ảnh Hưởng của Thiền
đến đời sống chúng ta
Trước hết ta phải tẩy uế, thanh lọc tâm. Nhưng không thể có tâm
thanh tịnh, nếu như thân ô uế, vì thế, ta cũng cần tẩy rửa các thứ tạp uế đã chất
chứa trên thân thể ta bấy lâu nay.
Hãy tưởng tượng một người đã sống trong một ngôi nhà đã hơn hai
mươi, ba mươi năm không dọn dẹp. Bao nhiêu thức ăn thừa thãi, quần áo bẩn thỉu,
rác rưởi đã chất đến trần nhà. Phải sống giữa đống rác đó thật hôi thối, khó chịu.
Nhưng người chủ sống ở đó thì chẳng hề bận tâm, cho đến một ngày có người bạn
ghé qua và nói: "Sao bạn không dọn nhà mình cho sạch sẽ?.” Rồi hai người bạn
bắt tay vào dọn dẹp một góc nhà. Sau đó người chủ bắt đầu thấy sống ở góc phòng
sạch sẽ đó dễ chịu hơn. Nên dọn dẹp cả căn nhà, người chủ bây giờ có thể ngắm
quang cảnh bên ngoài, có đủ chỗ đi qua lại trong nhà. Khi chỗ ở đã trở nên thoải
mái dễ chịu, người chủ mới có thể quay vào chú trọng đến nội tâm mình.
Căn nhà đó là thân chúng ta. Bất kể chúng ta đi đâu: từ thành phố
này đến xứ sở kia, từ chỗ trọ này đến nơi ở khác, không biết bao nhiêu lần. Ta
cũng lôi kéo thân đi cùng khắp cho đến ngày nó rời rã, hư hoại, chỉ còn là một
đống xương, một nhúm cát bụi. Nhưng còn chưa tới ngày ấy, ta còn phải mang thân
này. Còn phải sống, ta còn cần phải dọn dẹp cho ‘căn nhà’ này được thông
thoáng, sạch sẽ, dễ chịu.
Các phản ứng tâm lý chất chứa bên trong lâu ngày đã che mắt tâm
ta. Tâm đã dung chứa chúng thì chính tâm cũng phải tháo gỡ chúng. Trong Thiền,
điều này đồng nghĩa với “nhận biết các cảm thọ, nhưng không phản ứng, rồi buông
bỏ’. Bản chất của Thiền là không phản ứng. Đặc tính quan trọng đó giúp ta tìm
được sự an lạc, quân bình trong tâm hồn, vì các phản ứng giống như sự chuyển động
của các làn sóng phủ chụp ta, làm ta mờ mịt không thấy lối ra. Và chúng ta tiếp
tục u mê. Chúng ta có thể nghe, chúng ta có thể cảm thấy, nhưng không thể nhìn
thấy ‘nội tâm’ của ta. Nội tâm đó đã bị che phủ bởi các hành động, những phản ứng
tình cảm của chúng ta.
Khi các vọng tưởng khởi lên trong lúc tọa thiền, ta chỉ cần biết
chúng dấy khởi, mà không cần có phản ứng. Và ta cũng chỉ cần làm có thế. Thái độ
không phản ứng này cũng có thể được mang áp dụng vào đời sống hàng ngày của ta.
Cảm thọ nào dấy khởi, ta chỉ cần nhận biết nó đến, rồi để nó đi. Nếu chúng ta
có thể quán tưởng được như thế lúc ngồi thiền, là ta đã học được một trong những
bài học quan trọng nhất trong việc tự giải thoát mình.
Thật sai lầm nếu nghĩ rằng vì chúng ta đang sống, tức nhiên ta phải
biết nghệ thuật sống. Đó là một nghịch lý khác của cuộc đời. Sống là một nghệ
thuật. Ai trong chúng ta chẳng tùng vấp ngã một, đôi lần trong đời. Ta gọi đó
là thảm kịch, bất hạnh ‘của tôi’. Thật ra đó chỉ là một nghệ thuật sống chưa được
hoàn hảo.
Đặc tính thứ ba nhưng không kém phần quan trọng của việc tu thiền
là ta có thể kinh nghiệm được tính cách vô thường của sự vật. Trừ khi tự chúng
ta kinh nghiệm được điều đó, nếu không tính cách vô thường của sự vật cũng chỉ
là những lời nói vô nghĩa. Và lời nói không giúp chúng ta giải thoát được. Phải
tự chứng nghiệm. Con đường Đức Phật chỉ cho chúng ta là con đường nhằm đưa đến
giải thoát - một sự tự do hoàn toàn, tuyệt đối, và điều đó mỗi người phải tự chứng
nghiệm lấy. Khi tham thiền, hãy kinh nghiệm sự vô thường trực tiếp qua việc chú
tâm vào hơi thở, ta biết rằng một hơi thở vừa vào, lại một hơi thở ra. Hơi thở
trước không giống hơi thở sau. Cảm thọ này dấy lên, rồi qua đi. Tiếp theo một cảm
thọ khác lại đến. Rồi nối nối các cảm thọ khác dấy lên, cuối cùng không còn gì
nữa. Một cảm giác đau ở chân, ta trở mình, cảm giác đau biến mất. Cảm thọ đến,
rồi cảm thọ đi.
Với chút ít kinh nghiệm tu tập thiền, ta có thể dễ dàng nhận ra
được sự vô thường của cảm thọ, đồng thời ta cũng nhận ra được sự vô thường của
bản thân. Ai cũng biết thế. Người có hiểu biết đều biết rằng thân của ta, của tất
cả mọi người đều vô thường, hoại diệt. Nhưng tất cả chúng ta đều sống như thể
ta sẽ không bao giờ mất, ta đau khổ, khóc than khi thân này bị hủy hoại theo luật
tự nhiên, như thể đó là việc ta không bao giờ ngờ tới.
Suy nghĩ như thế là sai lầm, vô lý lắm phải không? Đó là vì chúng
ta tự quay lưng lại với thực tại. Ta chỉ muốn chấp nhận cái tốt đẹp. Còn khi phải
đối mặt với sự thật phủ phàng, ta tìm cách đổ lỗi cho kẻ khác. Có người còn đổ
cho quỷ thần, trời đất. Không cần biết ta trách móc
người chung quanh hay trách trời đất, sự thật là cuộc đời đầy những vô thường,
chúng ta phải chấp nhận sự thật đó để sống cho đúng.
Khi chúng ta suy nghĩ thêm, ta sẽ thấy là mỗi giờ phút trôi qua,
các tế bào trong cơ thể cũng thay đổi. Chúng ta ai không học điều này ở nhà trường.
Rõ ràng là chúng ta có thể kiểm nghiệm được điều này. Khi lắng
sâu trong Thiền định, ta có thể cảm được từng cảm giác trên da thịt mình. Ta sẽ
có cái nhìn khác về chính bản thân ta, cũng như về cuộc đời, vì giờ ta đã thấu
hiểu bằng chính kinh nghiệm của mình rằng không có gì bền vững, tồn tại mãi, nhất
là với thân này.
Khoa học đã chứng minh rằng không có gì trong vũ trụ là một khối.
Tất cả vật chất hiện hữu đều được tạo thành bởi những phân tử di chuyển với tốc
độ nhanh - đến cùng với nhau và rã tan cùng nhau - do đó chúng tạo ra ảo tưởng
của một khối vũng chắc. Đức Phật 2500 năm về trước đã nói như thế về các phân tử,
không cần đến các phòng thí nghiệm để chứng minh điều đó. Ngài đã tự kinh nghiệm
điều đó và đã Giác ngộ. Các nhà khoa học cũng biết tất cả những điều này, nhưng
họ không phải là đấng giác ngộ, vì điều họ thiếu sót là kinh nghiệm bản thân,
chính họ không tự chứng được những điều này.
Ta cũng tự biết với một chút phán đoán thông minh rằng không có
gì là một khối cứng rắn. Nếu không sẽ không có cơ thể chúng ta, mà chỉ có những
cái xác người. Nhưng đó là sự phán đoán của lý trí. Chưa đủ. Ta còn phải cảm nhận
được điều ấy. Khi ta cảm nhận được như thế trong Thiền định, ta thật sự ‘biết’.
Không ai có thể bàn cãi gì được về những kinh nghiệm của chính bản thân ta.
Ngay chính như nếu có ai đó nói với ta rằng: ‘Không. Không phải vậy. Thân ta là
một khối. Sao bạn không thử nắn thân thể mình thì biết. Nó là một khối cứng rắn,
phải không?’, ta cũng sẽ không muốn bàn cãi, không để bị thuyết phục. Như khi
có người tranh luận về những điều Đức Phật dạy, Ngài đã không cãi lại. Ngài
không phải bảo vệ cho giáo lý của mình. Vì Ngài đang nói về các kinh nghiệm tự
chứng.
Với sự chú tâm nhất quán, thậm sâu, ta có thể ‘thấy’ được những
thay đổi không ngừng trong ta. Chính tâm ta cảm nhận được điều đó, bên trong cơ
thể ta, vây thì tâm phải đứng ngoài mới nhìn thấy được, vậy làm sao nói được ta
là một khối rắn chắc. Tâm có thể nói rằng: ‘Nếu luôn luôn có sự chuyển đổi bên
trong ta, vậy thì cái ‘tôi’ ở đâu?’ Tất cả các cảm giác luôn thay đổi. Phút trước
có, phút sau không. Cơ thể luôn biến đổi. Không có gì để ‘tôi’ bám víu vào. Tư
tưởng luôn thay đổi, vậy ‘tôi’ ở đâu? Nhưng dĩ nhiên là con người chạy tìm một
hình ảnh tưởng tượng để ẩn trú vào như là một con người siêu phàm (higher
self), một tâm linh, một linh hồn... Nhưng xét kỹ ra, tất cả đều là ảo tưởng.
Chúng ta phải chấp nhận vô thường.
Một đặc tính nữa của việc hành Thiền, chính là phương pháp Thiền
mà Đức Phật đã nhắc đến trong lúc thuyết giảng về nền tảng của sự chú tâm, thiền
quán về bốn yếu tố: đất nước, gió, lữa. Cảm giác về sự cứng rắn trong cơ thể
thuộc về đất. Chúng ta cũng cảm được thể rắn chắc trong chiếc bồ đoàn ta ngồi.
Yếu tố rắn chắc (Đất) có mặt ở khắp mọi nơi. Ngay cả trong nước cũng có, nếu
không, ta đã không thể lội trong đó, hay đặt thuyền lên nước. Yếu tố đó có cả
trong không khí, nếu không chim, máy bay không thể bay trong đó.
Yếu tố Lửa - nhiệt độ - cũng ở khắp nơi. Nếu để ý, chúng ta có thể
cảm thấy sức nóng trong thân mình. Thường ta chỉ để ý đến yếu tố này khi đang lạnh
cóng, bị nóng quá hay lúc bị cảm sốt. Nhưng nhiệt độ luôn có mặt trong cơ thể
ta. Cũng như trong tất cả mọi sinh vật.
Yếu tố Nước ở trong máu, nước miếng, nước tiểu của chúng ta. Yếu
tố nước cũng là sức kết, bện. Khi ta có bột, đổ nước vào, bột sẽ dính vào nhau.
Nước là yếu tố kết, bện có mặt ở khắp mọi nơi. Không có nó, tất cả các tế bào
di chuyển trong thân ta, sẽ tan rã. Chúng ta sẽ không thể ngồi đây nếu không có
nó để giữ cơ thể chúng ta lại.
Tất cả những khám phá này thật lý thú phải không? Nhưng chúng
cũng vô dụng nếu ta không kinh nghiệm được chúng. Chúng sẽ vẫn chỉ là những kiến
thức tiêu khiển trong lúc tán gẫu với bạn bè. Nhưng khi ta có thể tự kinh nghiệm
được, chúng sẽ trở thành sự hiểu biết sâu sắc bên trong, về vật chất quanh ta.
Trí tuệ, sự nhận biết được bản chất thật của sự vật là điều Đức Phật thường hay
nhắc tới.
Cuối cùng là yếu tố không gian (Gió). Có không gian - những chỗ mở
- trong ta, như là lỗ mũi, bên trong miệng. Ngay trong nội tạng cũng có những
chỗ mở. Vũ trụ là không gian. Nếu chúng ta nhận ra được những điều này, chúng
ta sẽ thấy là tất cả đều cùng một thể, ta sẻ bớt được những suy nghĩ như - ’Đây
là tôi và tôi sẽ chỉ lo cho một mình tôi, không cần biết đến thế giới quanh
tôi. Mong là họ cũng sống an lành, nhưng đừng có trông cậy vào ‘tôi’. Khi chúng
ta nhận ra rằng chúng ta có cũng chỉ là do các duyên hợp lại, rồi tan đi, chúng
ta không là gì ngoài bốn thứ gió, lửa, đất và nước họp lại, thì ‘tôi’ là gì, đến
nỗi lúc nào ta cũng chăm chăm bảo vệ nó bằng mọi cách. Và thế giới còn lại, người
chung quanh ta là gì, để ta phải cảm thấy bị họ đe dọa?
0 Comments