Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Vô Ngã, Vô Ưu – Ayya Khema
Being Nobody, Going Nowhere
Diệu Liên – Lý Thu Linh
Chương 3. Thanh Tịnh Và Tỉnh Giác
Chương 3. Thanh Tịnh Và Tỉnh
Giác
Có rất nhiều phương pháp tu Thiền. Trong "Thanh Tịnh Đạo” (Path
of Purification) có hơn bốn mươi cách được liệt kê, nhưng chỉ có hai phương hướng,
hai con đường ta phải đi đến: Thanh tịnh và Tỉnh giác. Thanh tịnh và Tỉnh giác
luôn đi đôi với nhau. Giống như phương hướng, và mục tiêu. Ta phải biết con đường
để đi đến mục tiêu.
Ta cần phải thực tập cả hai phương cách, Thanh tịnh và Tỉnh giác,
để đạt được những kết quả mà Thiền sẽ mang đến cho ta. Phần đông chúng ta đều
muốn được an lạc. Ai cũng muốn được bình yên, muốn được có cảm giác vui sướng,
mãn nguyện. Trong Thiền định, nếu ta thoáng bắt được cảm giác an lạc đó, ta sẽ
hạnh phúc biết bao. Nhiều người đã thỏa mãn khi đạt được đến trình độ đó. Nhưng
thanh tịnh không phải là mục đích của Thiền. Đó chỉ là phương tiện đưa đến cứu
cánh. Thanh tịnh là phương tiện. Sự tỉnh giác trong nội tâm mới là cứu cánh.
Phương tiện rất cần thiết nhưng không thể lầm lẫn chúng với cứu cánh. Nhưng vì
phương tiện đó tạo ra sự thoải mái, dễ chịu, ta trở nên bám víu vào chúng.
Vấn đề của chúng ta là luôn chạy đuổi theo sự dễ chịu và xa lánh
sự khó chịu. Vì chúng ta coi mục đích của cuộc đời là được dễ chịu, hạnh phúc,
nên dường như ta chẳng có mục đích gì cả trong cuộc đời. Không thể nào tước bỏ
hết tất cả những điều khó chịu, đau khổ trong đời, mà chỉ giữ lại những gì ta
ưa thích. Chừng nào ta còn coi đó là mục đích của mình thì ta không có mục đích
gì cả. Trong Thiền cũng thế.
Như thế thì làm cách nào chúng ta có thể đạt được sự thanh tịnh,
và điều đó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào? Bằng cách thực tập chú tâm vào
hơi thở, dần dân ta sẽ tìm được sự thanh tịnh. Tâm ta sẽ ngưng suy nghĩ trong một
giây phút nào đó, và ta sẽ cảm thấy hoàn toàn thư thái, dễ chịu. Tâm suy nghĩ
không bao giờ được thư thái, vì suy nghĩ là một quá trình chuyển động, và bất cứ
sự chuyển động nào cũng tạo ra ma xát. Tuy nhiên ta có thể tìm được sự thanh tịnh
trong một giây phút nào đó, hay dài hơn, nếu ta tiếp tục tu tập và tăng thời
gian tham Thiền lên. Điều đó không có gì khó. Có thể lúc đầu ta thấy khó khăn,
nhưng với sự kiên trì, nhẫn nại, một chút duyên lành và một nơi yên tĩnh, ta có
thể làm được điều đó.
Chắc rằng chúng ta đều có duyên lành, nếu không ta đã không có mặt
nơi này. Những người có ác nghiệp sẽ không tìm được đến với Thiền, hoặc giả như
có, họ cũng không trụ lại. Do đó nói ta đã có sẵn duyên lành là vậy.
Về lòng kiên nhẫn, bạn cũng không thiếu, nếu như bạn đã chịu khó
đọc đến những dòng này. Chỉ cần thêm một yếu tố nữa đó là ý chí, sự quyết tâm.
Khi ngồi xuống chiếu Thiền, bạn cần tự nhủ: ‘Tôi sẽ chú tâm vào từng hơi thở, nếu
tôi có lơ là, tôi sẽ bắt đầu trở lại.” Cần làm như thế để giữ cho tâm thăng bằng,
giống như người đi trên dây xiếc. Mỗi lần lao đao, ta phải lấy lại thế cân bằng.
Vì thế ta cần có sự quyết tâm.
Khi cảm giác thanh tịnh, thư thái dấy lên - cái cảm giác mà Phật
gọi là sự thanh tịnh ngay giờ phút hiện tại - rồi qua đi, không thể khác được,
vì bất cứ điều gì đã có sinh thì phải hoại, phản ứng đầu tiên mà tâm phải có là
nhận ra tính cách vô thường của sự vật, chứ không phải để thất vọng kêu lên:
"Ồ, nó lại qua mất rồi.” Hoặc là "Cảm giác vừa rồi dễ chịu quá, làm
sao để có lại cảm giác ấy”, như cách ta vẫn phản ứng lâu nay.
Sống theo Pháp, hành theo Pháp, là những hành động không bình thường.
Khác với mọi người chung quanh. Khi Phật còn ngồi dưới cây bồ đề, trước khi
Giác ngộ, khi Sujata mang dâng ngài sữa trong chiếc tô vàng, cô cũng cúng dường
luôn chiếc tô quí. Đức Phật sau khi uống xong, đã thả chiếc tô vàng xuống dòng
sông trước mặt, và nói nếu như cái tô chảy ngược với dòng nước sông, Ngài sẽ
giác ngộ. Và cái tô đã chảy ngược dòng. Điều đó có thể xảy ra không? Có lẽ pháp
thoại đó muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng khi ta sống với Pháp, chúng ta phải đi
ngược lại với dòng chảy của bản năng, của các khuynh hướng tự nhiên. Chúng ta
phải đi ngược lại với những sự dễ dãi, thoải mái, những gì tất cả mọi người
khác đều theo đuổi. Chảy ngược dòng bao giờ cũng khó hơn là thuận, xuôi theo
dòng.
Cảm giác thoải mái, tự tại mà ta cảm nhận được trước hết ở thân,
rồi đến tâm, cũng sẽ qua đi. Chúng ta phải nhận ra tính cách vô thường của nó,
để ta có thể sử dụng nó cho một mục đích. Nếu không, ta chỉ sử dụng cảm giác
thanh tịnh đó cho sự thoải mái của riêng ta. Mà chỉ để thoải mái cho thân ta là
ta đã ích kỷ, chỉ
biết đến riêng mình, không phải là để tiến tới vô ngã, là cái gốc của những điều
Phật dạy.
Giáo lý của Đức Phật nhằm hướng ta đến vô ngã. Ngài nói: "Ta
chỉ dạy một điều, đó là giải thoát, chấm dứt khổ đau.” Điều đó không có nghĩa
là tất cả khổ đau trên đời đều chấm dứt. Điều đó có nghĩa là nếu không có một
cái tôi để đón nhận khổ đau, thì không có khổ đau. Cái tôi sẽ biến mất. Nếu
không có ai ở đây có vấn đề, thì làm gì có vấn đề? Nếu dùng cảm giác tự tại chỉ
cho riêng mình, thì ta đã đi ngược lại với lời Phật dạy.
Luôn trở về với hơi thở sẽ giúp ta đạt đến trạng thái thanh tịnh.
Chánh niệm, trong Bát Chánh Đạo, dạy ta sự chú tâm đúng, đưa đến thiền định.
Theo dõi hơi thở là việc cần làm, nhưng không có ai đạt được thiền định chỉ bằng
ao ước hay một vài buổi ngồi thiền. Tất cả cần có thời gian. Do đó khi ngồi Thiền,
ta cần đưa bất cứ vọng tưởng nào dấy lên trở về với sự tỉnh thức. Bất cứ ý tưởng
nào cũng thế, chúng không phải đến để phá rối chúng ta, cũng không phải là dấu
hiệu chứng tỏ ta không thích hợp với Thiền, cũng không phải cảm giác làm ta thấy
quá nóng, hay quá lạnh. Không có gì giống như thế cả. Vọng tưởng không phải là
kẻ phá rối trật tự của chúng ta. Chúng là ông thầy của chúng ta.
Mỗi vọng tưởng là một ông thầy, ‘dạy’ cho ta biết tâm ta lăng
xăng, không thể nương tựa, không thể tin cậy được. Nó suy nghĩ cả về những điều
ta không muốn nghĩ đến, cả khi ta chỉ muốn được hoàn toàn yên tĩnh và tự tại.
Trước hết, ta cần biết là tâm không phải là một phần tuyệt vời của chúng ta, dù
rằng nhờ nó ta có thể thâu thập được kiến thức, có thể hồi tưởng, có thể hiểu một
số khái niệm và phạm trù. Tuy nhiên nó là một cái tâm lăng xăng, luôn thay đổi
và nó sẽ không làm những gì chúng ta đòi hỏi ở nó.
Điều thứ hai, ta cần nhớ, là khó thể tin vào tâm. Ta không nên
tin vào tất cả mọi tư tưởng qua đầu ta. Chúng đã đến không mời mọc, thì tự
chúng cũng sẽ ra đi. Chúng chẳng có ích lợi gì, nhất là khi ta đang ngồi thiền.
Chúng có thể là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hay chỉ thuần là vọng tưởng.
Đôi khi chúng làm ta khó chịu, hay chỉ nhẹ nhàng như một giấc mơ. Có khi chúng
đến lộn xộn không đầu đuôi. Chúng nhanh chóng đi qua đầu ta, trước khi ta kịp
nhận mặt chúng. Vậy tại sao ta lại tin vào những điều mình thường suy nghĩ?
Trong lúc ngồi Thiền, chúng ta có cơ hội để quan sát tâm - tư tưởng
đi qua trong đầu - và luyện tập không để bị chúng lôi kéo. Thế thì tại sao
trong đời sống hằng ngày ta lại tin vào chúng và để chúng lôi kéo ta theo? Khi
tâm nói
"Người này thật xấu", "Người kia nói láo", ta
tin theo những điều đó. Khi tâm nói "Tôi chán quá. Mệt mỏi quá",
"Tôi cần thứ này" hay "Tôi phải có thứ kia", ta nghe theo.
Ta tin theo tất cả - nhưng tại sao ta phải tin chúng? Trong khi tất cả mọi suy
tưởng đều xảy ra theo một tiến trình, trong đời thường cũng như lúc hành thiền.
Tư tưởng dấy khởi lên, dừng lại trong chốc lát, rồi qua đi không theo một mẫu mực
nào hay lý do nào.
Khi đã thực sự nắm bắt được ý nghĩa của tiến trình này, ta có thể
thay đổi những suy nghĩ hiện lên trong đầu và các tư tưởng ta muốn nghĩ tới. Điều
đó có thể thực hiện được khi ta không còn tin vào những điều tâm nói nữa, mà chỉ
quan sát tiến trình của chúng. Cũng như với không khí chung quanh ta. Ta không
nắm không khí trong tay và bảo rằng không khí là của riêng mình, dầu rằng không
có nó ta không thể nào sống nổi. Đơn giản là không khí có mặt ở mọi nơi. Tư tưởng
cũng thế. Tiến trình của tư tưởng xảy ra tự nhiên trong tâm ta, và khi nào
chúng ta còn sống, tiến trình đó triền miên tiếp tục, dầu rằng chúng không đáng
tin, không thể dựa vào. Bởi thế, nếu ta có thể gạt bỏ phần lớn các suy tưởng
trong đầu mình, thì lại tốt hơn.
Ta còn có thể quan sát về tâm ở một khía cạnh khác. Là khi ta ngồi
thiền, nhưng không thể tập trung tư tưởng, khi ta buồn ngủ, không chú tâm, ta
hiểu rằng khi tâm không được ‘giải buồn’, nó muốn ngủ. Tâm luôn muốn được tiêu
khiển. Nó cần đọc sách, coi TV, thăm hàng xóm, nó cần được làm một thứ gì đó, bất
cứ thứ gì để giải buồn, để được bận rộn. Nó không chịu ngồi yên. Đó là một điều
thú vị để biết về chính mình.
Hãy tưởng tượng bạn phải ở một mình trong một tuần, chỉ một mình,
không có bất cứ thứ gì để tiêu khiển. Bạn sẽ coi đó là cực hình, mà thực vậy,
vì tâm không thể chịu đựng nổi. Nó luôn cần được ‘cho ăn’. Giống như thân cần
được ăn, tâm cũng vậy. Nó cần một thứ gì đó từ bên ngoài, vì chính tự nó không
thể thỏa mãn với chính mình. Khi ngồi thiền, ta sẽ khám phá ra điều đó về tâm.
Nhưng các vọng tâm thì vô thường. Chúng dấy lên, rồi qua đi.
Chúng không luôn có mặt như hơi thở của ta. Nếu chú tâm ta sẽ nhận biết khi nào
vọng tưởng dấy khởi. Khi chúng qua đi, dễ nhận biết hơn là khi nào chúng đến.
Ta không thể giữ chúng lại phải không? Tất cả những suy nghĩ nửa giờ trước đây
đã qua đi phải không?
Vô thường và vô sỡ hữu: ta đâu có làm chủ được chúng, phải không?
Và chúng cũng chẳng đáng để ta giữ lại, phải không? Vậy tại sao ta muốn làm chủ
chúng? Muốn nghĩ chúng là ta? Sao không nghĩ chúng chỉ là một hiện tượng tự
nhiên hiện ra, rồi tan mất. Chỉ có thế. Cũng thế, với thân này - nó có thực là
ta không? Nó cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên phát sinh ra bằng khái niệm,
và tan biến đi qua cái chết., một định luật tự nhiên, một sự kiện tự nhiên mà nếu
còn chấp Ngã ta không thể nào chấp nhận được điều đó.
Chấp Ngã hay ngã mạn không có nghĩa là ta ngạo mạn. Chấp Ngã đồng
nghĩa với u mê. Chỉ có các vị A-la-hán là không có ngã mạn. Ngã mạn có nghĩa là
ta đang nhìn thế giới và bản thân từ quan điểm của ‘cái tôi’, qua cái nhìn đó,
thế giới bên ngoài cũng như người chung quanh ta trở nên là mối đe dọa của
chúng ta, vì ‘cái tôi’ của ta dễ vỡ, dễ bị chạm và dễ đau khổ.
Tất cả các vọng tâm dấy lên khi ngồi thiền sẽ giúp cho chúng ta
hiểu về chính mình hơn, về tính cách vô thường của các hiện tượng, của thân,
tâm, về tính vô sở hữu của chúng. Nếu ta thực sự làm chủ những suy nghĩ của
mình, thì tại sao ta lại không làm chủ những suy nghĩ đáng có? Ai muốn làm chủ
một đống rác? Như tôi sẽ cố gắng để những vật thuộc sỡ hữu của tôi trở thành
quí báu.
Điều thứ ba ta rút ra được từ sự quán tâm là: đây là dukkha (đau
khố) hay sự không vừa lòng, không thỏa mãn. Dukkha không chỉ có nghĩa là sự khổ
đau, mà còn bao gồm tất cả những điều không như ý, là một khái niệm bao quát
hơn, gồm tất cả những gì ta đã kinh nghiệm qua, cả những việc vừa ý cũng làm ta
khổ vì chúng sẽ qua đi (vô thường). Sự không như ý của quá trình tư duy sẽ hiện
ra rất rõ trong thiền quán, vì ở đây trong lúc ta thực sự muốn chú tâm, ta lại
chỉ toàn ngồi suy nghĩ vẩn vơ.
Ta phải nhận biết về tính cách vô thường, không như ý và vô ngã bằng
chính kinh nghiệm bản thân của mình. Không ai ‘biết’ ba điều này mà chẳng từng
kinh qua chúng. Nếu ta không thực sự hiểu một cách trực tiếp bằng nội tâm của
mình thì chúng chỉ là những lời hoa mỹ, ở đầu môi. Vì nhiều người vẫn kinh nghiệm
những điều này từng giây phút, nhưng chẳng hề nhận ra được chúng.
Chúng ta đang chết từng giây phút, nhưng chúng ta cũng chẳng để ý
đến điều đó. Cần phải có chánh niệm để nhận biết chúng, và chánh niệm là điều ta
có thể đạt được trong quá trình tu tập thiền. Hãy quan sát sự không như ý trong
tiến trình tư duy như là một đặc tính không thể thiếu của nó.
Nếu ta có thể nhìn mọi sự vật như chúng hiện hữu, bằng con mắt tỉnh
giác, thì ta đã hiểu điều Phật dạy. Thiệt là vô ích để ngồi đó nghĩ “Giá mà tôi
không suy nghĩ", "Giá mà tôi có thể chú tâm", "Giá mà ngồi
thiền không khó thế này" hay "Giá mà chân phải tôi không đau đến thế.”
Đó là mộng. Đó là ước mơ. Chúng ta không thể chỉ ngôi mơ mộng hay ước mơ nếu
chúng ta muốn thấu đạt được nguyên nhân đã làm ta đau đớn.
Phật đã nói tất cả chúng sinh đều bệnh, và Pháp là thuốc chữa. Phật
có danh hiệu là Đức Y Vương. Như với mọi thứ thuốc chữa bệnh khác, nếu chúng ta
chỉ biết về chúng hay đọc toa thuốc thì không thể hết bệnh. Nhân loại đã đọc
toa thuốc hàng ngàn năm nay. Hãy ngưng đọc toa thuốc để uống thuốc. Khi đã phân
biệt được sự khác biệt giữa đọc toa thuốc và uống thuốc, ta sẽ dễ dàng biết
mình phải làm gì.
Khi cảm giác khó chịu dấy lên vì phải ngồi nguyên một chổ, tâm thức
sẽ lên tiếng phản đối, cằn nhằn. Nó vội nói "Tôi không thích chút nào. Thiệt
khó chịu hết sức. Tôi sẽ không chịu nổi nữa. Tôi cần ngồi lên ghế",
"hay "Tại sao phải ngồi như thế này? Tự cực hình mình à?" hay
"Biết có đáng không. Biết có đáng để chịu bao cực khổ ngồi thiền không”,
và nhiều thứ nữa. Tâm có khả năng nói với ta bất cứ điều gì. Nó có thể nói về mọi
vấn đề, và mọi khía cạnh của vấn đề. Nó vừa đề cao một vấn đề đã quay ra hất đổ.
Bất cứ tâm của ai cũng làm thế được. Tâm có thể xoay ngang, trở ngửa.
Đừng ngồi đó nghĩ "Tôi không thích chút nào, chân phải của
tôi, lưng tôi, cổ tôi - hay bất cứ thứ gì - đau quá.” Không. Hãy sử dụng các cảm
thọ vừa dấy lên như một cách để tỉnh giác. Cảm thọ là nền tảng của cuộc sống.
Nhưng chúng ta phản ứng thế nào là do sự tiếp xúc với các căn của ta: Sắc,
thanh, hương, vị, xúc và thức. (Đức Phật nói về tâm, quá trình tư duy như là
giác quan thứ 6 của ta). Thí dụ như nếu ta không nhìn thấy, thế giới sẽ khác
hơn bây giờ. Hay điếc. Hay câm... thiếu một giác quan nào cũng thay đổi cái
nhìn của ta về thế giới bên ngoài. Nhưng khi có đủ sáu căn, tiếp xúc với sáu trần,
từ đó sinh ra các cảm thọ, các phản ứng.. Điều đó không thể tránh. Chúng ta
không thể không có cảm xúc. Một vị A-la-hán cũng có cảm thọ - dễ chịu, khó chịu
hay trung tính. Ai cũng có cảm thọ. Cảm thọ trung tính có thể ta không biết đến
vì ta chưa có sự chú tâm đủ. Chúng ta chưa đủ chánh niệm. Nhưng với các cảm thọ
dễ chịu ta nhận biết ngay, ta bám víu vào chúng, và tìm mọi cách để giữ chúng lại.
Mọi nền kinh tế trên thế giới đều dựa vào việc tạo nên các cảm thọ dễ chịu, và
tìm cách làm cho người ta càng muốn thụ hưởng chúng nhiều hơn. Nếu mọi người đều
từ bỏ các cảm thọ dễ chịu, thì có mấy nền kinh tế trên thế giới đứng vững được.
Các cảm thọ dễ chịu phát sinh ra nhờ quạt máy, tủ lạnh, nệm êm, nước nóng, nước
lạnh, đủ loại thực phẩm và còn nhiều, nhiều nữa.
Ai cũng có cảm thọ: dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Chúng dấy
khởi liên tục. Phần đông chúng ta bỏ cả cuộc đời mình để đi tìm, nắm giữ các cảm
thọ dễ chịu, và xua đuổi, trốn tránh các cảm thọ khó chịu. Một cuộc chiến đấu
vô vọng. Không tưởng. Vì không ai có thể nắm giữ mãi các cảm thọ dễ chịu. Cũng
không có ai có thể trốn tránh các cảm giác khó chịu mãi. Khi ta già đi - các cảm
thọ khó chịu tăng lên so với lúc trẻ. Không có sự ngoại lệ đối với ai cả. Đó là
định luật tự nhiên. Cái chết sẽ đến, đi kèm theo với những cảm thọ khó chịu.
Tuy nhiên các khổ thọ này không chỉ dành cho tuổi già, cho những người gần đất
xa trời. Các người trẻ nhất, mạnh nhất cũng đầy những cảm giác, tình cảm khó chịu,
đau khổ.
Nếu ta quyết ngồi yên giây lát, tự soi lại mình, không còn chạy
trốn các cảm giác khó chịu, đau khổ, bám chặt vào các cảm giác dễ chịu - có thể
chỉ trong một buổi thiền - ta sẽ biết về mình rất nhiều. Quan sát các khổ thọ dấy
lên trong khi ngồi thiền - điều này sẽ xảy ra cho nhiều người trong chúng ta -
cũng là một cách để tìm hiểu các phản ứng hành động của chính mình. Ta muốn
thay đổi cảm giác đó, muốn chạy trốn nó. Một phản ứng gần như phản xạ, lập tức
đối với cảm giác khó chịu là di chuyển, thay đổi thế ngồi để tránh sự đau đớn
càng sớm càng tốt.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta trốn tránh các khổ thọ bằng
cách trốn tránh, xa lánh những người đã tạo cho ta các cảm giác đó, chạy trốn
hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác, thay vì nhận biết các cảm thọ của mình và
nói: "À, nó đã dấy lên. Nó sẽ ở lại giây lát, rồi đi qua. Không có gì tồn
tại. Nếu ta nhận biết được cảm thọ của mình, là ta đang soi lại nó trong chánh
niệm, thay vì phản ứng bằng hành động.”
Phản ứng của chúng ta, bằng cách xua đuổi các khổ thọ, bám giữ
các lạc thọ, là lý do khiến chúng ta luẩn quẩn trong vòng luân hồi sinh tử, vì
ta không có một phương hướng, một ngã rẻ nào khác. Đó là sự chuyển động trong một
vòng tròn. Ta không thể thoát khỏi sức hút của nó. Đó là một trò chơi quay
vòng. Không có lối ra. Chúng ta quay vòng, quay vòng theo lạc thọ, xua đuổi các
khổ thọ, một vòng tròn không kẻ hở. Chỉ có một cách để thoát khỏi sức hút đó,
là ngưng lại quan sát các cảm thọ và không phản ứng bằng hành động. Nếu trong
lúc ngồi thiền, ta có thể làm được như thế dù chỉ trong giây lát, thì ta cũng
có thể làm được như thế trong các sinh hoạt đời thường.
Tất cả chúng ta ai chẳng từng buồn phiền, khổ đau trong cuộc đời.
Người này nói lời trái tai ta không muốn nghe. Kẻ khác làm những điều ta không
muốn thấy. Ta bị hiểu lầm, người khác không nhớ ơn ta, không ngợi khen, không
thương yêu ta. Người ta bỏ đi khi ta muốn giữ họ lại. Họ ở bên ta, khi ta muốn
xa lánh họ. Không ai tránh khỏi những đau khổ này. Chính Đức Phật cũng không
tránh khỏi. Đức Phật chỉ khác chúng ta là Ngài chỉ cảm nhận các cảm thọ, mà
không phản ứng bằng hành động.
Chỉ nhận biết các cảm thọ. Khi các cảm giác khó chịu dấy lên vì phải
ngồi lâu một chổ, đừng trách móc ai, hay việc gì. Không có ai hay việc gì tạo
ra các cảm giác đó cả. Chúng chỉ đến rồi đi. Quan sát và nhận biết cảm giác đó.
Ta sẽ không thể thay đổi được gì, trừ khi ta có thể tách mình ra khỏi cảm giác
khó chịu đó, để không đau khổ vì nó. Ta không thể làm khác hơn thế. Trong hoàn
cảnh này ta chỉ cần biết các cảm giác khó chịu cũng chỉ là cảm giác. Không ai
là chúng cả. Ta đâu có mời chúng đến. Vậy tại sao lại nhận chúng là mình?
Trừ khi chúng ta nhận biết được những gì xảy ra cho tâm khi những
cảm giác này dấy lên, chúng ta sẽ lại rơi vào thói quen phản ứng của mình. Những
suy nghĩ quen thuộc, các phản ứng theo thói quen, ngày này qua ngày khác đã tạo
thành rãnh, thành nếp trong tâm tưởng ta. Giống như một con đường sình lầy, khi
bánh xe chạy qua chạy lại, các vết lún, càng lún sâu thêm. Tâm của ta cũng thế.
Các vết lún sâu, sâu mãi cho đến lúc ta bị dính cứng một chổ, không thể tiến tới
nữa.
Đây là cơ hội, hoàn cảnh thuận tiện để chúng ta quan sát phản ứng
của tâm đối với các cảm giác khó chịu. Đừng phân tích "Ngồi như vầy máu
không lưu thông được, không tốt cho tôi, các bác sĩ đã nói....” Chỉ quan sát phản
ứng của tâm. Tâm ta rất khôn ngoan, lém lỉnh. Nó có thể làm tất cả mọi việc. Ta
gọi nó là nhà ảo thuật, cũng không sai. Nó có thể biến hóa ra con thỏ trong chiếc
nón không. Nó có thể phân tích, lý luận đến chỗ mà ta thấy tất cả mọi người
khác đều sai, và ta thì luôn luôn đúng.
Đó là điều ta phải luyện tập trong lúc tu tập thiền: Không thể
lúc nào ta cũng hoàn toàn đúng, 100 phần trăm đúng. Phần lớn chúng ta tranh cãi
đều để bảo vệ một lập trường, dựa trên quan điểm của chính cá nhân ta. Vì ta chấp
ngã, chấp có ‘cái tôi’ ảo tưởng, tất cả các quan điểm, ý kiến của chúng ta đều
được lọc qua con mắt của Ngã. Nếu ta nhìn qua một màn kính màu đen, tất cả mọi
thứ bên ngoài đều đen. Không thể là gì khác hơn thế.
Khi ta đã thấu rõ tâm, cũng như các phản ứng của nó qua thiền định,
chúng ta dễ chấp nhận sự thật là khi ta nghĩ một điều, bốn triệu người khác có
thể nghĩ về một điều hoàn toàn khác ta. Làm sao có thể là ta đúng và bốn triệu
người còn lại sai? Chúng ta tranh cãi bảo vệ cho những quan điểm - đôi khi có
thể đúng - nhưng chỉ đúng trong hoàn cảnh, cái nhìn của riêng ta. Chỉ có các vị
A-la-hán, những người đã không còn chấp Ngã, là có thể hoàn toàn đúng.
Tất cả các phương pháp nhằm giúp ta đạt được sự tỉnh giác, cần được
áp dụng không phải chỉ trong lúc tâm đang theo dõi hơi thở, mà cả khi tâm phản ứng
theo cảm thọ, hay vọng tưởng. Ta cần phải luôn áp dụng chúng để đạt được sự tỉnh
giác, và từ đó đưa đến sự an lạc. Mỗi phút tỉnh giác là mỗi phút thanh tịnh.
Khi không còn cần phải để ý đến các suy tưởng của mình, ta dễ buông bỏ chúng
hơn. Khi không còn cần phải phản ứng theo các cảm thọ, ta dễ buông bỏ các hành
động, phản ứng. Mỗi phút thanh tịnh cũng là mỗi phút tỉnh giác. Cả hai đi đôi với
nhau như hình với bóng.
Những điều Phật dạy đi ngược lại với bản năng của chúng ta, do đó
không dễ cho ta chấp nhận, thấu hiểu. Chỉ có tâm đã được tôi luyện mới có thể
thấu hiểu được Phật pháp. Trong khi tâm bình thường nghi ngờ, lý luận - đó chỉ
là việc làm lãng phí thời gian, vô bổ. Muốn thật sự hiểu được Phật pháp bằng
chính nội tâm của mình, ta phải nhiếp tâm, giữ tâm tĩnh lặng, và tâm đó phải biết
bản chất thực của Ngã, chỉ là những hiện tượng đến, rồi đi.
Tất cả có thể xảy ra trong lúc ta ngồi thiền và theo dõi hơi thở:
Thanh tịnh và tỉnh giác. Tỉnh giác (Minh Sát Tuệ) là mục đích. Thanh tịnh là
phương tiện. Nếu tâm không thanh tịnh, tâm sẽ đầy những luồn sóng, sóng của sự
ghét, sự ưa. Các làn sóng sẽ phủ trùm mắt nhìn của ta. Ta sẽ không thể soi thấy
mình trên một mặt hồ đầy sóng phủ. Mặt nước phải lặng, trong. Cũng thế, mặt hồ
tâm cũng phải lặng, trong trước khi tâm được khai sáng. Lúc đó ta mới có thể thấy
thấu suốt, rõ ràng.
Thiền định cũng đem lại cho ta những kết quả tương tự. Khi chúng
ta chú tâm, theo dõi từng cử động, thanh tịnh sẽ đến. Nếu vọng tưởng có dấy
lên, ta dùng chúng để nhận biết những diễn biến của tâm.
0 Comments