Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Vô Ngã, Vô Ưu – Ayya Khema
Being Nobody, Going Nowhere
Diệu Liên – Lý Thu Linh
Chương 1. Thiền: Lý Do Và Phương Pháp
Tại sao phải hành Thiền? Thiền có gì quan trọng? Hẳn là bạn cũng
muốn tìm hiểu, nếu không bạn đã không đọc những dòng này. Tôi muốn nhấn mạnh rằng
Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần
cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
Con người rất lạ là luôn nghĩ về tương lai hay quá khứ. Người trẻ
thì nghĩ đến tương lai ở phía trước. Người già thì nhớ về quá khứ đã sống qua.
Nhưng để kinh nghiệm cuộc đời, chúng ta cần phải sống trong giờ phút hiện tại.
Cuộc sống không có ở quá khứ. Đó chỉ là kỷ niệm, hoài ức. Cuộc sống không xảy ra trong
tương lai. Đó chỉ là dự tính. Thời điểm duy nhất chúng ta thực sự sống là hiện
tại trước mắt. Và chúng ta phải tập sống như thế. Cuộc đời con người có thể kéo
dài trong 60 hay 70 năm, nhưng ta phải học sống ngay trong giờ phút hiện tại. Đời
sống sẽ bớt bao phiền toái, nếu như ta chỉ sống trong giờ phút hiện tại.
Nói thì dễ nhưng thực hành, khó lắm thay! Ai đã từng làm thử hẳn
đã kinh nghiệm được điều này. Ai chưa từng thử, sẽ tự khám phá ra điều ấy. Một
lời khuyên đơn giản, nhưng không phải dễ thực hiện. Và không có phương pháp nào
giúp chúng ta sống cho từng giây phút hiện tại hữu hiệu bằng tham thiền.
Tất cả chúng ta đều biết giữ cho thân thể sạch sẽ. Ta tắm rửa mỗi
ngày ít nhất một lần hay nhiều hơn. Khi ra đường, ta mặc quần áo sạch sẽ. Tối đến
ta lo cho thân ngủ nghĩ. Nếu không, ta không đủ sức đương đầu với những khó
khăn trong cuộc đời. Ta cần có một mái nhà để che cho thân khỏi mưa, gió, nóng,
lạnh. Thiếu những thứ đó, thân sẽ không chịu đựng nỗi. Ta còn bồi dưỡng cơ thể
bằng những thức ăn chọn lọc, bổ dưỡng, lo tập thể dục cho thân được cường
tráng, khỏe mạnh. Dầu không tập, chúng ta cũng đi đứng, hoạt động, vì nếu không
chân tay ta sẽ teo tóp. Tâm cũng cần được chăm sóc giống như thế.
Đúng ra, ta còn phải chăm sóc cho tâm hơn cả thân nữa, vì tâm là
chủ, còn thân chỉ là người đầy tớ. Một người đầy tớ khỏe mạnh, cường tráng,
năng nổ nhưng có một ông chủ yếu đuối, thiếu kiên quyết không biết mình phải
làm gì, cũng khó có thể làm nên việc. Người chủ phải biết điều khiển, chỉ huy
người đầy tớ của mình. Ngay nếu như người đầy tớ không được khỏe mạnh, tháo vát
nhưng ông chủ khôn ngoan, giỏi giắn thì ‘ngôi nhà’ của ta cũng được tự tại.
Tâm và thân này làm nên ‘ngôi nhà’ của chúng ta. Nếu ngôi nhà nội
tâm không được yên, thì ngôi nhà bên ngoài của ta cũng khó ổn. Ngôi nhà chúng
ta sống, và làm việc tùy thuộc vào sự an khang của ngôi nhà nội tâm. Người chủ,
người điều khiển phải sống trong những điều kiện hoàn hảo nhất.
Không có gì trong vũ trụ này có thể so sánh hay thay thế được
tâm. Tâm tạo ra mọi thứ. Nhưng tất cả chúng ta đều coi thường tâm mình. Đó cũng
là một nghịch lý của cuộc đời. Không ai coi thường thân thể mình, nếu nó bệnh,
ta vội vã chạy đi bác sĩ. Nếu nó mệt mỏi, ta vội vã cho nó nghĩ ngơi. Nhưng ta
đã làm gì cho tâm? Hình như chỉ có các vị Thiền sư là chú trọng đến tâm của họ.
Muốn tâm được phát triển sâu rộng, ta cần phải chăm sóc tâm. Nếu
không tâm ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt nhị nguyên (hai chiều): Tốt, xấu;
ngày mai hay hôm qua; yêu (tôi thích thứ này), ghét (tôi không ưa thứ kia); có
(tôi sở hũu cái này), không (không sỡ hữu thứ kia); cái này của tôi, cái kia của
anh. Chỉ khi tâm đã được rèn luyện, ta mới có thể thay đổi cái nhìn của mình để
có thế nhìn thấy được những ‘chiều’ khác của sự vật.
Việc ta cần làm trước tiên cho Tâm là tẩy rửa, tắm gội cho nó,
không chỉ mỗi ngày một lần hay hai lần như đối với cơ thể, nhưng trong mỗi giây
phút tỉnh thức. Để làm được điều đó, chúng ta phải biết phương pháp. Với cơ thể,
điều đó khá dễ, chỉ cần dùng xà - phòng và nước. Chúng ta đã quen làm như thế từ
ngày còn nhỏ. Nhưng tâm chỉ có thể được gội rửa bằng tâm. Những gì tâm đã thâu
nhận, chỉ có tâm mới có thể cởi bỏ. Mỗi giây phút tỉnh thức trong thiền là mỗi
giây phút tâm được sàng lọc vì may mắn thay, tâm không thể làm hai việc cùng một
lúc. Dầu rằng, như Đức Phật đã nói trong một nháy mắt ta có thể có đến hàng
ngàn ý tưởng dấy lên, nhưng thực tế ít ai nghĩ nhiều đến vậy và nhất là không
thể có tất cả những suy tưởng đó trong cùng một lúc. Chúng tiếp nối nhau cái
này sau cái khác thoáng qua nhanh chóng trong đầu ta.
Khi ta Thiền quán, ái dục, tham vọng, không thể hiện ra vì tâm chỉ
có thể làm một công việc một lúc. Do đó nếu thời gian tọa thiền tăng lên, các vết
nhơ bẩn trong tâm ta sẽ được gội rửa ngày một trở nên sạch hơn.
Tâm, vật độc nhất vô nhị trong vũ trụ, báu vật duy nhất chúng ta
sỡ hữu. Khi có món đồ quí, dĩ nhiên là ta phải giữ gìn cẩn thận. Chùi rửa, đánh
bóng, vô dầu mỡ, thỉnh thoảng cho nó nghĩ. Còn đây ta có tâm quí báu này, chỉ
có tâm giúp cho ta làm được mọi việc, kể cả việc giác ngộ, nhưng biết gìn giữ
nó hay không tất cả là tùy thuộc chúng ta. Tâm sẽ trở thành vô dụng nếu không
được giữ gìn, trau chuốt.
Lúc ngồi Thiền, ta tập gạt bỏ ra khỏi tâm những gì ta thấy không
cần thiết. Để chỉ giữ trong tâm những điều ta muốn nghĩ đến. Khi đã thành thói
quen, chúng ta có thể áp dụng phương pháp tu Thiền vào các sinh hoạt đời thường, để giúp ta dứt bỏ những tư
tưởng không lành mạnh. Như thế nhờ ngồi Thiền, ta có thể dứt bỏ chạy đuổi theo
vọng tưởng trong sinh hoạt đời thường, ngược lại việc chúng ta không chạy đuổi
theo vọng tưởng trong đời sống giúp cho việc ngồi Thiền của ta dễ dàng hơn. Người
có thể làm chủ tư tưởng mình, khiến tâm chỉ nghĩ đến những gì mà họ muốn nghĩ
được gọi là A-la-hán hay đấng Giác Ngộ.
Đừng ngạc nhiên nếu không phải lúc nào ta cũng có thể dứt bỏ vọng
tưởng. Thật dễ chịu khi ta có thể chỉ nghĩ đến những điều ta muốn nghĩ đến, vì
như thế là ta đã làm chủ được tâm của mình, hơn là tâm làm chủ ta. Luôn chạy đuổi
theo bất cứ tư tưởng nào dấy khởi lên trong tâm, dù hạnh phúc hay đau khổ, là
thói quen chúng ta cần từ bỏ khi ngồi thiền.
Bước kế tiếp là tập luyện tâm. Tâm không kiềm chế giống như những
lượn sóng trồi lên trụt xuống, chạy lăng xăng từ chuyện này qua chuyện khác,
không bao giờ có thể trụ yên một chổ. Ai chẳng từng kinh nghiệm có khi đọc
sách, đến cuối trang mới bỗng nhận ra không biết mình vừa đọc gì, phải đọc lại
cả trang. Ta phải thúc đẩy, luyện tập để tâm ở yên một chổ, giống như ta phải
thúc đẩy, vận động các bắp thịt, khi ta tập hít thở, tập tạ. Sự phát triển,
tăng trưởng chỉ có thể có được từ sự tập luyện tâm làm theo ý ta, đứng yên khi
ta muốn nó đứng yên.
Sự luyện tập cũng giúp tâm thêm vững mạnh, vì tâm đã được rèn luyện
biết buông bỏ. Chúng ta không phải là A-la-hán, ai cũng chấp Ngã. Chính cá nhân
chủ nghĩa, thái độ ‘cái này của tôi, cái kia của anh’ đã tạo nên bao vấn đề
trên thế giới. Chúng ta xác định ‘bản ngã’ của mình qua những gì ta suy nghĩ,
qua sách báo, phim ảnh đã xem, đã đọc, hoặc sử dụng tâm chỉ để làm những việc
cũng cố thêm cho cá nhân mình. Điều quan trọng nhất ta học được trong lúc ngồi
Thiền, là biết buông bỏ, không chạy đuổi theo vọng tưởng. Khi không còn ai suy
tưởng, không còn có cái Ngã.
Lúc đầu, ta chỉ có thể buông bỏ được vọng tưởng trong khoảng thời
gian ngắn, nhưng đó chỉ là bước đầu. Con đường tâm linh cuối cùng rồi cũng dẫn
ta đến sự hoàn toàn buông xả. Không có gì ta cần phải đạt được hay bám víu vào.
Những điều này đã được lập đi lập lại nhiều lần, nhưng ta không có cách gì khác
hơn để diễn tả. Đúng vậy, con đường tâm linh là con đường dẫn ta đến việc từ bỏ,
buông xả tất cả những gì đã được ta tích lũy, chất chứa từ bấy lâu nay: Sự sở hữu,
các thói quen, tư tưởng, thành kiến, các lối suy nghĩ theo khuôn mẫu. Tuy nhiên
lúc ngồi Thiền, không phải dễ buông bỏ vọng tâm, vì cái Tôi không dễ đầu hàng;
cái Tôi sẽ cảm thấy lạc lỏng khi không có suy tưởng. Tâm sẽ phản ứng ngay bằng
cách kêu lên: "Việc gì đã xảy ra?" - và rồi nếu không biết buông xả,
tâm ta lại chạy đuổi theo vọng tưởng.
Làm thế nào để bắt tâm ở yên một chổ, là góp phần vào việc phát
triển ‘bắp thịt’ của tâm, tạo cho tâm thêm sức mạnh và quyền lực. Giáo lý của Đức
Phật rất thâm thúy, cao siêu, và chỉ có những tâm thâm thúy, cao siêu mới có thể
lãnh hội đầy đủ những lời dạy của Ngài. Vì thế, chúng ta cần luyện tâm thêm
vũng mạnh.
Một thân thể cường tráng có thể chịu đựng được tất cả những gì ta
bắt nó phải chịu đựng. Một Tâm vững mạnh cũng giống như thế. Tâm vững mạnh có
thể chịu đựng sự nhàm chán, căng thẳng, tuyệt vọng hay đau khổ - vì tâm không
bám víu vào những gì nó không thích. Thường xuyên thực tập thiền định là một
cách để luyện tâm.
Là một bộ phận vô giá, tuyệt vời nhất trên đời, tâm hơn tất cả mọi
thứ cần phải được chăm sóc. Vậy mà ta đã không ngừng nghĩ suy, tính toán từ lúc
còn ấu thơ, và từ bao nhiêu lượng kiếp trước đó. Suốt ngày chúng ta suy nghĩ,
suốt đêm chúng ta mộng mị. Chẳng có phút giây nào ngưng nghĩ. Chúng ta có thể
nghĩ hè, đi thư giãn. Nhưng thực ra cái gì thư giãn? Chính là cơ thể được thư
giãn. Nó đi lên núi, xuống biển, du lịch chân trời, góc biển, nhưng còn tâm thì
sao? Thay vì suy nghĩ những chuyện phải làm ở nhà, nó bận rộn thâu nhận những
âm thanh, cảnh quang, mùi vị mới lạ. Tâm ta chẳng hề được nghĩ ngơi, nó chỉ
thay đổi công tác thôi.
Nếu cơ thể chúng ta không được nghỉ ngơi một đêm, nó khó mà làm
việc ngày hôm sau. Tâm ta cũng cần nghĩ ngơi, nhưng không phải bằng giấc ngủ.
Tâm chỉ có thể được nghĩ ngơi khi nó ngừng mọi suy nghĩ, mà chỉ cảm nhận. Ta có
thể ví tâm như một màn ảnh trắng, trên đó các phim ảnh được liên tục chiếu lên,
không bao giờ ngưng nghĩ. Vì cuốn phim - tư tưởng - liên tục chiếu, người ta
quên mất còn có tấm màn hình ở đằng sau đó.
Nếu chúng ta có thể tạm ngưng cuốn phim lúc tham thiền, chúng ta
sẽ cảm nhận được sự tĩnh lặng thường hằng của tâm. Đó là giây phút tuyệt vời.
Giây phút hạnh phúc không thể kiếm tìm ở đâu, qua bất cứ phương tiện nào. Niềm
hạnh phúc tuyệt vời, không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện bên ngoài nào, trừ thực
tập Thiền. Không phải tùy thuộc vào món ngon, thời tiết tốt, bạn quý, người đồng
cảm, sự hổ trợ tinh thầy hay của cải vật chất. Tất cả những thứ đó đều không thể
tùy thuộc vào, vì chúng luôn thay đổi. Chỉ có bản tâm, chánh niệm là không bỏ
rơi chúng ta nếu ta tiếp tục thực hành Thiền.
Khi tiếng động trong tâm tạm dừng, không chỉ có sự im lặng, mà
còn có cả cảm giác hài hòa. Tâm cuối cùng được nghĩ ngơi. Nó đã tìm được đến
nhà. Ta sẽ đau khổ biết bao nếu không có cái nhà che chở xác thân. Tâm cũng thế.
Giây phút bình an, tĩnh lặng đó là ‘ngôi nhà’ của tâm. Nó trở về nhà nghĩ ngơi
giống như sau một ngày làm việc, chúng ta trở về nhà ngã người lên chiếc ghế êm
ả hay nằm xuống giường để thân nghỉ ngơi. Tâm bây giờ cũng thế. Được nghĩ ngơi,
không phải suy nghĩ. Suy nghĩ, vọng tưởng là đau khổ, cho dù chúng ta nghĩ về bất
cứ thứ gì. Vì có sự chuyển động là có va chạm. Tất cả những gì chuyển động sẽ
sinh ra va chạm, cọ sát, khổ đau.
Giây phút chúng ta thư giãn, nghĩ ngơi, tâm tăng thêm sức mạnh và
an lạc vì nó biết nó có thể trở về nhà bất cứ lúc nào. Sự an lạc chúng ta tìm
thấy được khi ngồi thiền sẽ ở trong ta suốt ngày, cả trong những sinh hoạt đời
thường ta cũng tìm thấy nó. Tâm an lạc, vì tâm biết rằng không có gì cản trở nó
trở về nhà, tìm sự tĩnh lặng, hài hòa.
Đó là những lý do chính để giải thích tại sao cuộc sống của ta sẽ
không bao giờ đầy đủ nếu không có Thiền. Những lạc thú bên ngoài mà cuộc đời
mang đến cho ta, không thể so sánh được với niềm vui nội tâm. Sự buông xả, không
bám víu giúp chúng ta hiểu rằng ‘cái tôi’ luôn đòi hỏi, do đó tâm luôn đòi suy
tưởng. Khi ta ngưng mọi ham muốn, ta không cần phải suy nghĩ, vọng tưởng. Khi
chúng ta ngưng đòi hỏi, tất cả mọi sự thất vọng, đau khổ đều biến mất. Đó là lý
do tại sao chúng ta cần phải tu tập Thiền.
Trước hết chúng ta phải chú trọng đến hơi thở ra, hơi thở vào nơi
mủi. Hơi thở là gió, nên khi gió vào hay ra, ta đều cảm thấy. Cảm giác đó giúp
chúng ta chú tâm ở nơi mủi. Việc làm đó lúc đầu khó tránh khỏi khó khăn.
Hơi thở là mạng sống của chúng ta, vì thế còn gì thích hợp hơn là
dùng hơi thở để thiền quán: Ta sống nhờ hơi thở, không thể tách rời khỏi nó
giây phút nào. Vậy mà ít khi ta nghĩ đến nó. Ta quên khuấy nó, cho đến khi ta mất
nó, nghẹt thở, chết đuối hay chết ngạt. Lúc đó ta mới thấy hơi thở quan trọng
biết bao. Nhưng khi hơi thở còn ở với chúng ta, ta chẳng bao giờ nhớ tới, dầu
hơi thở là sự sống còn của ta, là báu vật quí nhất của tất cả chúng ta. Hơi thở
còn trực tiếp hổ trợ cho tâm. Khi ta xúc động hay vội vã, hơi thở trở nên gấp
rút. Khi tâm ta thanh tịnh, tĩnh lặng, hơi thở nhẹ nhàng, thanh thoát. Khi hơi
thở trở nên mong manh đến nỗi khó tìm thấy, là khi chúng ta ở trong trạng thái
Thiền định. Tập chú trọng vào hơi thở là phương pháp giúp chúng ta đạt đến trạng
thái đó. Thở là một hành động vừa tự nhiên, vừa có thể được kiểm soát. Ta có thể
làm cho hơi thở sâu, dài hay ngắn hay ngưng lại giây lát.
Có nhiều cách để chú tâm vào hơi thở. Ta có thể theo dõi hơi thở
vào, hơi thở ra khi ta chú tâm đến nó. Muốn thực tập phương cách này, không cần
phải thay đổi cách thở chỉ im lặng theo dõi nó vào ra.
Hoặc tập chú tâm bằng cách kết hợp hơi thở với tụng niệm, thí dụ
‘Nam Mô’. Nam khi hít vào, Mô khi thở ra.
Ta cũng có thể đếm một khi hít vào, một khi thở ra,. Hai khi hít
vào, hai khi thở ra. Không đếm dưới 5, không đếm quá 10. Khi đếm đến 10, lại bắt
đầu trở lại một. Khi tâm lang thang, bắt đầu đếm lại 1. Lúc bắt đầu, nếu bạn
không bao giờ đếm quá hai, đừng nản lòng. Hãy kiên trì thực tập.
Tất cả tâm đều giống nhau. Bạn không cần phải nghĩ: “Tôi không thể
tập thiền. Thiền không thích hợp với tôi.” Nhưng ‘tôi’ ở đây là ai? Nó chỉ là một
tâm không kiềm chế so với tâm đã được kiềm chế. Một vận động viên có tập luyện
sẽ chạy nhanh, chạy giỏi hơn người không tập. Thế thôi. Nếu không có sự cố gắng
tập luyện, không thể bảo rằng: "Tôi vô dụng. Tôi không thể chạy nhanh.”
Đếm hơi thở, niệm chú, chú tâm vào hơi thở ở nơi mũi hay theo dõi
hơi thở ra vào. Hãy thử xem phương pháp nào thích hợp với bạn, rồi giữ lấy
phương pháp đó. Nếu bạn có thể tập chú tâm, bằng cách theo dõi hơi thở phồng
lên xệp xuống ở bụng thì cứ làm như thế. Chân xếp như thế nào để bạn có thể ngồi
lâu. Lưng thẳng nhưng không gồng. Vai, bụng, và cổ cũng phải thư giãn, mềm. Khi
bạn ngồi bị ngã chúi, hãy ngồi thẳng lại. Đầu cũng phải giữ thẳng. Ngôi chúi, đầu
gục xuống dễ làm ta buồn ngủ hơn là tĩnh tâm. Khi ngồi Thiền chúng ta cần phải
hoàn toàn tỉnh thức.
Bạn sẽ thấy rằng không phải lúc nào tâm cũng trụ vào hơi thở, dù
bạn tập bằng phương pháp nào: niệm chú, đếm 1-1, 2-2 hay chú tâm vào hơi thở ở
mũi hay theo dõi hơi thở vào ra. Tâm vẫn lăng xăng, trừ khi bạn đã từng tập ngồi
thiền một thời gian dài. Vọng tưởng - cuốn phim - vẫn còn đó. Chỉ có cách là tập
gọi tên các vọng tưởng, nhưng nếu gặp khó khăn, có thể đơn giản hóa bằng cách gọi
chung chung như ‘tư tưởng’, ‘hồi ức’, ‘lầm lẫn’, ‘dự tính’ hay ‘nhảm nhí’.
Không quan trọng. Vì ngay lúc ta đặt cho vọng tưởng một cái tên, là lúc ta đã
tách ta ra khỏi nó. Nếu không, bạn không phải là ngồi thiền mà là ngồi suy nghĩ
và bạn sẽ hoàn toàn bị dẫn dắt, lôi cuốn theo các suy tưởng của mình. Bạn sẽ lo
cho con mèo bị nhốt ngoài cửa, lo không biết mấy đứa nhỏ ngủ chưa...Bất cứ gì,
thì bạn cũng đang lo nghĩ, dĩ nhiên tâm bạn sẽ tự bào chữa rằng: "Nhưng
tôi cần phải biết những điều đó chứ.” Khi tọa thiền, bạn không cần biết về vấn
đề gì cả. Cuộc đời vẫn cứ tuần tự trôi đi, không cần đến sự lo lắng của chúng
ta. Mỗi giây phút, nó đến rồi đi.
Khi vọng tưởng dấy lên, hãy nhìn thẳng vào nó, đặt tên cho nó.
Trúng, sai không thành vấn đề. Một khi vọng tưởng đã được đặt tên, có nghĩa là ta
có thể buông bỏ nó. Dần dần thói quen này sẽ được chúng ta áp dụng vào mọi phút
giây tỉnh thức. Nhờ thế khi có những tư tưởng không trong sáng, ta có thể buông
bỏ chúng. Bạn sẽ tập chỉ nghĩ đến điều mình muốn nghĩ, và khi làm được như thế,
bạn sẽ không bao giờ thấy khổ đau nữa. Chỉ có kẻ khờ mới tự nguyện đau khổ.
Đặt tên cho các tư tưởng, đó là cách giúp ta nhận biết vọng tưởng
trong đời sống hàng ngày, nhưng khi ngồi thiền, ta gọi đó là sự tỉnh thức. Đó
là cách thực tập Chánh niệm. Đức Phật nói: "Tỉnh thức là phương pháp duy
nhất để giải thoát con người, giúp họ tránh thất vọng, bước vào con đường giác
ngộ, thoát khỏi khổ đau.” Biết rằng ‘Tôi đang suy nghĩ. Tôi đang lơ đễng. Lo lắng.
Bứt rứt. Mơ mộng về tương lai. Mong ước....” Chỉ nhận biết, rồi trở về với hơi
thở. Nếu bạn có hàng ngàn vọng tưởng, thì hãy nhận biết chúng hàng ngàn lần. Nhận
biết sự dấy khỏi của vọng tưởng và nội dung của chúng. Đấy là nền tảng của sự tỉnh
thức một cách chủ động, con đường duy nhất đưa đến giải thoát - nếu ta thực sự
thực hành chúng.
Cơ thể của chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu vì phải ngồi trong một
tư thế không quen thuộc, và nhất là vì ta bắt nó phải ngồi yên. Thân không bao
giờ thích phải ở yên một chỗ dù chỉ trong thời gian ngắn. Ngay như khi nằm trên
chiếc giường êm ái, thoải mái, thân cũng lăn trở suốt đêm. Thân muốn di chuyển
để thoát khỏi sự khó chịu, nên dù ta đang ngủ, thân vẫn chuyển động. Cũng thế,
khi chúng ta ngồi thiền, sự khó chịu dấy lên. Thay vì lập tức nghe theo thân,
thay đổi thế ngồi như ta vẫn thường làm, thường phản ứng khi đau đớn, khó chịu
dấy lên, hãy nhận biết nó. Quan sát cảm giác khó chịu từ đâu tới. Có phải vì sự
tiếp xúc với gối, sàn nhà hay với chân kia. Từ sự tiếp xúc sinh ra cảm giác. Từ
cảm giác dẫn đến hành động. (Đây cũng chính là vòng luân hồi luẩn quẩn của
chúng ta. Chính phản ứng của chúng ta đối với các cảm giác đưa chúng ta đến
luân hồi sinh tử).
Chỉ có ba loại cảm giác: dễ chịu, trung tính, khó chịu. Ngồi Thiền
gây cảm giác khó chịu, nên tâm lên tiếng: ‘Á, cảm giác khó chịu, đau đớn quá.
Tôi không chịu nỗi, tôi muốn thoát ra khỏi cảm giác này’. Chúng ta sống, phản ứng
như thế mỗi ngày, từ sáng đến tối, đều như thế. Bất cứ điều gì làm chúng ta khó
chịu, chúng ta chạy trốn, xua đuổi hay cố gắng thay đổi các nguyên nhân bên
ngoài chúng ta. Bằng mọi cách chúng ta xua đuổi khổ đau. Nhưng sẽ không có cách
gì làm được, trừ khi chúng ta dứt bỏ được lòng tham muốn. Bất cứ điều gì ta làm
cho thân, xoay chuyển chiều nào rồi nó cũng sẽ khó chịu, vì sự thoải mái không
thể kéo dài.
Hãy quan sát vòng luẩn quẩn đó: tiếp xúc, cảm giác, phản ứng.
‘Tôi cảm thấy đau. Tôi muốn chạy khỏi chỗ này’. Nhưng thay vì chạy trốn, hãy đặt
hết cả sự chú tâm vào nơi đang bị đau đớn, để cảm nhận sự thay đổi của nó. Bạn
sẽ thấy cảm giác đau đớn hoặc là di chuyển đến nơi khác, hoặc là thay đổi cường
độ. Cảm giác đó không là một khối đông đặc, nó di chuyển, nó đổi thay.
Hãy nhớ rõ rằng, cơ thể ta không có sự đau đớn, nhưng nó đang đau
đớn. Chỉ có như thế ta mới hiểu sự thật về những đau đớn của con người. Không
phải là thỉnh thoảng cơ thể ta mới bị đau đớn, khó chịu mà nó luôn luôn đau đớn,
khó chịu. Nó không thể nằm hay ngồi yên mà không cảm thấy khó chịu. Hãy nhận biết
tánh vô thường đó. Hãy nhận biết tính chất khổ đau đã được ươm mầm trong cơ thể
con người. Hãy nhận biết là cảm giác chúng tự đến, không có lời mời của chúng
ta. Vậy tại sao gọi chúng là ‘của tôi’? Hãy nhận biết chúng từ các cảm giác khó
chịu này, rồi thì chuyển đổi nếu cần, không phải là ngay lập tức. Chỉ chuyển đổi
sau khi chúng ta đã quán sát tại sao cần làm vậy. Chuyển đổi nhẹ nhàng, đầy
chánh niệm để không làm phiền đến người chung quanh.
Cứ ngồi nguyên một chỗ cắn răng chịu đựng, và tự nhủ "Tôi sẽ
ngồi nguyên bằng mọi giá. Tôi không chịu đựng nỗi nữa, nhưng tôi vẫn cố chịu”,
không đem lại lợi lộc gì cho sự ngồi thiền của chúng ta. Đó là một phản ứng sai
lầm không khác gì sự đầu hàng nhanh chóng. Một đằng là chạy đuổi theo sự thoải
mái, đằng khác là sự bám víu vào khổ đau. Chúng chỉ là hai mặt của một đồng tiền.
Cách tốt nhất là làm sao để hiểu rõ nội tâm, hiểu rõ hành động của ta, và như
thế mới thật sự mang lại kết quả. Hãy tiếp xúc với tư tưởng và cảm giác khi
chúng dấy khởi. Quan sát tính cách vô thường của chúng. Chúng đến, rồi chúng
đi. Vậy tại sao ta nhận chúng là mình? Ta có mời chúng không? Chắc chắn là
không. Ta chỉ có ý định ngồi thiền thôi phải không? Vậy tại sao tâm ta đầy những
vọng tưởng? Chúng có phải là ta không? Chúng có phải là sự khổ đau không?
Vô thường, khổ đau, vô ngã là ba đặc tính bao trùm vạn vật. Trừ khi ta nhận biết chúng từ trong tâm thức của ta, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu Đức Phật nói gì. Thiền là phương pháp giúp ta hiểu ra điều ấy. Thiền là hành động. Còn lại tất cả chỉ là ngôn từ.
0 Comments