Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Đại Phẩm (Mahāvagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
Chương 3. Vào Mùa Mưa (VassūpanāyikakkhandhakaṂ)
Tụng phẩm thứ nhì
Mục Lục
[214] Các trường hợp vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa
[217] Việc vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc, trong xe tải,
trong chiếc thuyền
[218] Các chỗ không được vào mùa (an cư) mưa
[220] Câu chuyện về người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra
[221] Câu chuyện về đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Giảng
giải về mùa (an cư) mưa thời điểm trước
[222] Giảng giải về mùa (an cư) mưa thời điểm sau
[223] Bài kệ tóm lược
Nội Dung
[214] Các trường hợp vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa
[214] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala, các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi các thú dữ. Chúng đã vồ lấy, chúng đã giết hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư)
mưa bị khuấy nhiễu bởi các thú dữ. Chúng vồ lấy, chúng giết hại. (Nghĩ rằng):
“Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an
cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi
các loài rắn. Chúng cắn, chúng giết hại. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng
ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi
những kẻ trộm cướp. Chúng cướp đoạt, chúng đánh đập. (Nghĩ rằng): “Chính điều
này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi
các yêu tinh. Chúng nhập vào (thân), chúng đoạt lấy (thân). (Nghĩ rằng): “Chính
điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư)
mưa.
Trường hợp ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị
lửa đốt cháy. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc bởi đồ ăn khất thực. (Nghĩ rằng):
“Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an
cư) mưa.
Trường hợp chỗ trú ngụ mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị
lửa đốt cháy. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc với việc nằm ngồi . (Nghĩ rằng):
“Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an
cư) mưa.
Trường hợp ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị
nước ngập. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc bởi đồ ăn khất thực. (Nghĩ rằng): “Chính
điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư)
mưa.
Trường hợp chỗ trú ngụ mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị
nước ngập. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc với việc nằm ngồi . (Nghĩ rằng): “Chính
điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư)
mưa.
[215] Vào lúc bấy giờ, ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an
cư) mưa ở tại trú xứ nọ đã di chuyển vì bọn trộm cướp. Các vị đã trình sự việc ấy
lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến ngôi làng.[6]
Ngôi làng đã bị tách ra làm hai. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến nhóm đông hơn.
Nhóm đông hơn không có đức tin, không có ngưỡng mộ. Các vị đã
trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến nhóm có niềm tin đã được an
trú.
[216] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala các vị tỳ
khưu vào mùa (an cư) mưa đã không nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô
thiển hoặc thượng hạng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư)
mưa không nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng.
(Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc
đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, (nhưng)
không nhận được thức ăn thích hợp. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!”
rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, nhận được
thức ăn thích hợp, (nhưng) không nhận được dược phẩm thích hợp. (Nghĩ rằng):
“Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an
cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, nhận được
thức ăn thích hợp, nhận được dược phẩm thích hợp, (nhưng) không nhận được người
phục vụ (upaṭṭhāko)
phù hợp. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp người phụ nữ thỉnh mời vị tỳ khưu đã
vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đến, tôi cho ngài vàng, hoặc
tôi cho ngài vàng nén, hoặc tôi cho ngài ruộng, hoặc tôi cho ngài vườn, hoặc
tôi cho ngài bò đực, hoặc tôi cho ngài bò cái, hoặc tôi cho ngài tôi trai, hoặc
tôi cho ngài tớ gái, hoặc tôi cho ngài con gái ruột để làm vợ, hoặc tôi trở
thành vợ của ngài, hoặc tôi đưa đến cho ngài người vợ khác.” Trường hợp ấy, nếu
vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tâm thay đổi nhanh
chóng,’ (việc này) có thể là nguy hiểm cho Phạm hạnh của ta” rồi nên ra đi. Vô
tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp cô gái điếm thỉnh mời vị tỳ khưu đã
vào mùa (an cư) mưa ...(như trên)... cô gái lở thời thỉnh mời, kẻ vô căn thỉnh
mời, các thân quyến thỉnh mời, các vị vua thỉnh mời, những kẻ trộm cướp thỉnh mời,
những kẻ vô lại thỉnh mời rằng: “Thưa ngài, hãy đến, chúng tôi cho ngài vàng,
hoặc chúng tôi cho ngài vàng nén, hoặc chúng tôi cho ngài ruộng, hoặc chúng tôi
cho ngài vườn, hoặc chúng tôi cho ngài bò đực, hoặc chúng tôi cho ngài bò cái,
hoặc chúng tôi cho ngài tôi trai, hoặc chúng tôi cho ngài tớ gái, hoặc chúng
tôi cho ngài con gái ruột để làm vợ, hoặc chúng tôi đưa đến cho ngài người vợ
khác.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng:
‘Tâm thay đổi nhanh chóng,’ (việc này) có thể là nguy hiểm cho Phạm hạnh của
ta” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nhìn thấy của chôn giấu không có chủ. Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như
vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tâm thay đổi nhanh chóng,’ (việc này) có thể là
nguy hiểm cho Phạm hạnh của ta” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư)
mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nhìn thấy nhiều vị tỳ khưu đang ra sức chia rẽ hội chúng. Trường hợp ấy, nếu vị
tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm
trọng, hội chúng chớ có bị chia rẽ trong khi ta còn hiện diện” rồi nên ra đi.
Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp
ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội
chúng là nghiêm trọng, hội chúng chớ có bị chia rẽ trong khi ta còn hiện diện”
rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy là bạn
của ta, ta sẽ nói với họ rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc
chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ
hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi
nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy không
phải là bạn của ta, tuy nhiên những người bạn của những người ấy là bạn của ta.
Vậy ta sẽ nói với những người bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những
người ấy rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng
là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ
làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu đã chia rẽ hội chúng.”
Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy là bạn của ta,
ta sẽ nói với họ rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội
chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội
chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi
nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu đã chia rẽ hội chúng.”
Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy không phải là
bạn của ta, tuy nhiên những người bạn của những người ấy là bạn của ta. Vậy ta
sẽ nói với những người bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những người
ấy rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là
nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ
làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni ra sức chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy là
bạn của ta, ta sẽ nói với các cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói
rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với
việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ
để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni ra sức chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy
không phải là bạn của ta, tuy nhiên các cô bạn của những cô ấy là bạn của ta. Vậy
ta sẽ nói với các cô bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những cô ấy
rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là
nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ
làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni đã chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy là
bạn của ta, ta sẽ nói với các cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói
rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với
việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ
để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa
nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni đã chia rẽ hội
chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy
không phải là bạn của ta, tuy nhiên các cô bạn của những cô ấy là bạn của ta. Vậy
ta sẽ nói với các cô bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những cô ấy
rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là
nghiêm trọng, các chị gái chớ có vui mừng với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ
làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội
cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
[217] Việc vào mùa (an cư) mưa
ở khu rào gia súc, trong xe tải, trong chiếc thuyền
[217] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia
súc.
Khu rào gia súc di chuyển. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép di chuyển theo khu rào gia súc.[7]
Vào lúc bấy giờ, khi việc vào mùa (an cư) mưa đang đến gần, có vị
tỳ khưu nọ có ý định đi theo đoàn xe tải. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở trong xe tải.
Vào lúc bấy giờ, khi việc vào mùa (an cư) mưa đang đến gần, có vị
tỳ khưu nọ có ý định đi theo chiếc thuyền. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức
Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở trong chiếc
thuyền.
[218] Các chỗ không được vào
mùa (an cư) mưa
[218] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ vào mùa (an cư) mưa ở trong bọng cây. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là các yêu tinh.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trong bọng
cây; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở trên chạc
ba của cây. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là các người săn thú.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trên chạc ba của
cây; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[219] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở ngoài trời.
Khi trời mưa, các vị chạy đến gốc cây, đến hốc cây nimba. Các vị đã trình sự việc
ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở ngoài trời; vị
nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa không có chỗ trú
ngụ nên bị khó nhọc vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế
Tôn.
- Này các tỳ khưu, vị không có chỗ trú ngụ không nên vào mùa (an
cư) mưa; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở nhà quàng tử
thi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những người thiêu xác chết.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở nhà quàng tử
thi; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở mái che tạm.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những người chăn bò.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở mái che tạm; vị
nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở trong vại đất
nung. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trong vại đất
nung; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[220] Câu chuyện về người cháu
trai của bà Visākhā mẹ của Migāra
[220] Vào lúc bấy giờ, hội chúng ở thành Sāvatthi thực hiện điều thỏa thuận là: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp các vị tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
- Này đạo hữu, hội chúng thực hiện điều thỏa thuận là: “Không được
cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Này đạo hữu, hãy chờ đến khi nào các vị tỳ
khưu trải qua mùa (an cư) mưa; khi đã trải qua mùa (an cư) mưa các vị sẽ cho xuất
gia.
Sau đó, khi đã trải qua mùa (an cư) mưa, các vị tỳ khưu ấy đã nói
với người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra điều này:
- Này đạo hữu, hãy đi đến hôm nay và hãy xuất gia.
Người ấy đã nói như vầy:
- Thưa các ngài, nếu tôi đã được xuất gia thì tôi còn có thể thỏa
thích. Thưa các ngài, giờ đây tôi sẽ không xuất gia.
Bà Visākhā mẹ của Migāra phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại thực hiện điều thỏa thuận có hình
thức như vầy: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa,” có khi nào mà
Giáo Pháp lại không được thực hành?
Các tỳ khưu đã nghe được bà Visākhā mẹ của Migāra phàn nàn, phê
phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, không nên thực hiện điều thỏa thuận có hình thức
như vầy: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Vị nào thực hiện thì
phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[221] Câu chuyện về đại đức
Upananda con trai dòng Sākya. Giảng giải về mùa (an cư) mưa thời điểm trước
[221] Vào lúc bấy giờ, chỗ cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala đã được đại đức Upananda con trai dòng Sākya (Thích Ca) hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vào khoảng giữa đường vị ấy đã nhìn thấy hai trú xứ có nhiều y. Vị ấy đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ này, như thế có nhiều y sẽ được phát sanh đến ta?” Vị ấy đã sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ ấy. Đức vua Pasenadi xứ Kosala phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ngài đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi hứa hẹn
chỗ cư trú mùa mưa của chúng tôi lại nuốt lời? Không phải rằng đức Thế Tôn bằng
nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc tránh xa sự nói
láo hay sao?
Các tỳ khưu đã nghe được đức vua Pasenadi xứ Kosala phàn nàn, phê
phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi hứa hẹn chỗ
cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời? Không phải rằng đức
Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc
tránh xa sự nói láo hay sao?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ
khưu lại và đã hỏi đại đức Upananda con trai dòng Sākya rằng:
- Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa
của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa
của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời? Này kẻ rồ dại, không phải rằng ta
bằng nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc tránh xa sự
nói láo hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ
khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vào khoảng giữa
đường vị ấy nhìn thấy hai trú xứ có nhiều y. Vị ấy khởi ý như vầy: “Hay là ta
nên sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ này, như thế có nhiều y sẽ được phát sanh
đến ta?” Vị ấy sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị
tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng.[8] Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc
cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy
thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết,
vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm
trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba
ngày rồi ra đi không phải vì công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ
khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba
ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy
thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba
ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt quá
(thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước
không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi
ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay
trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ
khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Bảy ngày trước ngày lễ
Pavāraṇā, vị ấy ra đi do công việc cần thiết. Này
các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở lại.[9]
Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự
hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ
Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem
lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị
ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước
không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ
Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem
lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết, vị ấy ra đi
ngay ngày hôm ấy. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi
không phải vì công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba
ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai
ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt
quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm
trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi
công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về
trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy
được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ
Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem
lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Bảy ngày trước ngày lễ Pavāraṇā, vị ấy do công việc cần thiết rồi ra đi.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở
lại. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội
ở sự hứa hẹn.
[222] Giảng giải về mùa (an
cư) mưa thời điểm sau
[222] Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ
trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết,
vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi
ra đi không phải vì công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống
hai ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống
hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt
quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy
không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ
Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú
ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba ngày
rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc
quay trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị
tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm sau. ...(như trên)... Bảy ngày trước ngày trăng tròn
tháng Kattika là ngày lễ hội Cātumāsinī,[10] vị ấy ra đi do công việc cần thiết.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở
lại. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở
sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm sau. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ
Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem
lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị
ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. ...(như trên)... Rồi do công việc cần thiết, vị ấy
ra đi ngay ngày hôm ấy. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra
đi không phải vì công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai
ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. ...(như trên)... Vị ấy sau khi sống
hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt
quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy
không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
...(như trên)... Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi
công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về
trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy
được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu
hứa hẹn cho thời điểm sau. ...(như trên)... Bảy ngày trước ngày trăng tròn
tháng Kattika là ngày lễ hội Cātumāsinī, vị ấy ra đi do công việc cần thiết.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở
lại. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở
sự hứa hẹn.
Hết Chương 3 Vào Mùa Mưa
Tóm lược chương này:
[223] Bài kệ tóm lược
[223]
Vào mùa (an cư) mưa,
khi nào? và bao lần?
vào khoảng giữa mùa mưa
không muốn và cố ý,
dời lại, nam cư sĩ,
mẹ và cha bị bệnh,
anh em, và thân quyến,
người làm của tỳ khưu.
Trú xá, các thú dữ,
lại thêm các loại rắn,
trộm cướp, và yêu tinh,
với cả hai bị cháy,
bị nước lũ cuốn trôi,
(ngôi làng) lại dời đi
các thí chủ nhiều hơn,
thô thiển và hảo hạng,
dược phẩm được thích hợp,
và có người phục vụ.
Người nữ, cô gái điếm,
lở thời, kẻ vô căn,
thân quyến, và đức vua,
kẻ cướp, bọn bất lương,
của chôn, sự chia rẽ
có được tám trường hợp.
Bãi nhốt thú, đoàn xe,
chiếc thuyền, và bọng cây,
và ở chạc ba cây,
cư trú mưa ngoài trời,
và vị không chỗ ngụ,
nhà quàng xác, mái che,
và ở vại đất nung.
Các vị ấy đạt đến
thỏa hiệp, đã hứa hẹn,
lễ Bố Tát bên ngoài,
thời điểm trước và sau,
kết hợp theo cách ấy.
Ra đi việc không cần,
việc cần làm cũng thế,
lại nữa hai ba ngày,
với việc trong bảy ngày,
và bảy ngày sắp đến,
về lại hoặc không về,
nên xem xét đường lối
liên kết theo thứ tự
hợp thành các sự việc.
Trong chương này có 52 sự việc.
[1] Tính theo âm lịch của Việt
Nam nếu không có tháng nhuần thì thời điểm trước là ngày 16 tháng 6, thời điểm
sau là ngày 16 tháng 7.
[2] Tam Tạng Thái Lan không đề
cập đến phòng tắm hơi, gian nhà ở phòng tắm hơi ở danh sách các công trình xây
dựng phục vụ cho tỳ khưu ni và chú thích rằng Tam Tạng của các nước khác không
có luôn cả nhà vệ sinh trong danh sách này (Xem Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương
X, [606] để có thêm tài liệu về vấn đề nhà vệ sinh của tỳ khưu ni). Về nhà tắm
hơi thì tỳ khưu ni không được phép sử dụng (Sđd. [609]).
[3] Dường như các vị tỳ khưu đại
diện để thọ lãnh cho dù các công trình trên được xây dựng không dành cho các vị.
[4] Danh sách các công trình để
phục vụ cho người nữ cư sĩ cũng không có phòng tắm hơi và gian nhà ở phòng tắm
hơi nhưng có nhà vệ sinh.
[5] Tam Tạng Thái Lan vẫn để
nhà vệ sinh trong danh sách này. Vì người sử dụng là sa di ni nên chúng tôi
theo Tam Tạng Miến Điện và loại công trình này ra khỏi danh sách.
[6] Nếu ngôi làng di chuyển
không xa thì nên cư trú tại chính trú xá ấy và đi đến chỗ ở mới của ngôi làng để
khất thực; nếu xa thì có thể đi theo trường hợp bảy ngày (theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa).
[7] Ngài Buddhaghosa giải
thích rằng vị tỳ khưu bị đứt mùa (an cư) mưa trong trường hợp này không phạm tội.
[8] Tức là ngày mười sáu tháng
sáu theo âm lịch của Việt Nam nếu không có tháng nhuần. Không như âm lịch của
Việt Nam, lịch này được tính theo nửa tháng trăng và hiện đang còn được sử dụng
ở một số quốc gia.
[9] “... na vā āgaccheyya” =
“không có thể trở lại” không nên hiểu là: “có thể không trở lại” (Không tìm được
lời giải thích của ngài Buddhaghosa về việc này).
[10] Tức là rằm tháng mười âm
lịch.
Hết Chương 3 - Quay Về Mục Lục Chương 3
Xem Chương 4 - Quay Về Mục Lục Đại Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments