Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương 10. KOSAMBĪ - Tụng Phẩm 2

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Đại Phẩm (Mahāvagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Chương 10. Kosambī (Kosambikkhandhaka)

2. Tụng phẩm thứ nhì

Mục Lục

[247] Các lời kệ của đức Thế Tôn trước khi ra đi

[248] Việc đi đến làng Bālakaloakāraka và khu vườn cây Pācīnavasa

[249] Đức Thế Tôn và con long tượng ở Pārileyyaka

[251] Phản ứng của các cư sĩ ở Kosambī

[252] Sự nhận biết người nói sai Pháp hoặc đúng Pháp do mười tám sự việc

[253] Sự quan tâm của các tỳ khưu trưởng lão ở thành Sāvatthi

[257] Các vị tỳ khưu ở Kosambī đi đến thành Sāvatthi để gặp đức Thế Tôn

[258] Sự phục hồi vị tỳ khưu bị án treo. Sự hợp nhất hội chúng

[259] Các câu hỏi của ngài Upāli về sự hợp nhất hội chúng

[260] Bài kệ của ngài Upāli

[261] Bài kệ tóm lược

Nội Dung

[247] Các lời kệ của đức Thế Tôn trước khi ra đi

[247]

Chúng phàm phu náo nhiệt

chẳng ai nghĩ mình ngu,

dầu hội chúng tan vỡ

chúng nghĩ chẳng ai hơn.

Lời kẻ trí cởi mở

nói đủ chuyện trên đời

chúng muốn miệng há rộng

bị lôi đi chẳng biết.

Những ai cố chấp rằng:

“Ngươi chửi ta, đánh ta,

thắng ta, cướp bóc ta!”

người ấy hận không tan.

Những ai không cố chấp:

“Ngươi chửi ta, đánh ta,

thắng ta, cướp bóc ta!”

người ấy hận tiêu tan.

Hận thù chẳng bao giờ

tiêu tan do thù hận

nhưng bởi không thù hận

Pháp ấy có từ xưa.

Những người khác không biết

nơi đây ta kềm chế,

kia mọi người đều rõ

tranh cãi tự nhiên tan.

Xương tan, mạng chẳng còn,

cướp ngựa, bò, tài sản,

trong khi xâm chiếm đất

chúng còn biết hợp đoàn;

sao các người lại không?

Nếu người có bạn hữu

trí tuệ, cùng đi chung,

thông minh, sống khôn khéo,

vưọt qua mọi gian khổ

nhờ thế vị ấy sống

hoan h, trú được niệm.

Nếu người không bạn hữu

trí tuệ, cùng đi chung,

thông minh, sống khôn khéo,

như vua bỏ vương quốc,

như voi và rừng rậm 

voi đi chỉ một mình.

Tốt hơn đi một mình

không kẻ ngu làm bạn

vị ấy sống đơn độc

ác không làm, chẳng lo,

như voi và rừng rậm

voi đi chỉ một mình.

[248] Việc đi đến làng Bālakaloakāraka và khu vườn cây Pācīnavasa

[248] Khi ấy, đức Thế Tôn đứng giữa hội chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này rồi đi đến ngôi làng Bālakaloakāraka. Vào lúc bấy giờ, đại đức Bhagu đang trú tại ngôi làng Bālakaloakāraka. Đại đức Bhagu đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã sắp đặt chỗ ngồi, đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đã đi ra rước lấy y bát. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Đại đức Bhagu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Bhagu đang ngồi một bên điều này:

- Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?

- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.

Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Bhagu bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến khu vườn cây Pācīnavasa.

Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila trú tại khu vườn cây Pācīnavasa. Người giữ khu vườn cây đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Này ông sa-môn, chớ có đi vào khu vườn cây này. Ở đây, có ba người con trai gia đình danh giá và có tính tự trọng trú ngụ. Chớ có gây phiền nhiễu đến họ.

Đại đức Anuruddha đã nghe được người giữ khu vườn cây đang căn dặn đức Thế Tôn, sau khi nghe đã nói với người giữ khu vườn cây điều này:

- Này đạo hữu giữ vườn, chớ có ngăn cản đức Thế Tôn. Bậc Đạo Sư của chúng tôi là đức Thế Tôn đã đến.

Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp đại đức Nandiya và đại đức Kimbila, sau khi đến đã nói với đại đức Nandiya và đại đức Kimbila điều này:

- Các đại đức hãy đi ra. Các đại đức hãy đi ra. Bậc Đạo Sư của chúng ta là đức Thế Tôn đã đến.

Khi ấy, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila đã đi ra đón đức Thế Tôn, một vị đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đã sắp xếp chỗ ngồi, một vị đã mang lại nước rửa chân, ghế kê chân, và tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Các vị đại đức ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Anuruddha đang ngồi một bên điều này:

- Này các vị Anuruddha, các ngươi sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?

- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.

- Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, có được trạng thái như sữa với nước, có nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến không?

- Bạch Thế Tôn, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến.

- Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế nào?

- Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm.

Rồi đại đức Nandiya và đại đức Kimbila cũng đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm. Bạch ngài, chúng con sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế ấy.

- Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân hay không?

- Bạch ngài, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân.

- Này các vị Anuruddha, các ngươi sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế nào?

- Bạch ngài, ở đây vị nào trong chúng con đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, đem lại nước uống và nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy có thể ăn; nếu không muốn, thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống, nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đổ nước vào. Nếu vị ấy không làm nổi, sau khi ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai lại, chúng con nhờ (vị kia) phụ giúp với hành động bằng tay và bạch ngài, nhưng không vì lý do đó mà chúng con nói ra lời. Bạch ngài, cứ mỗi năm ngày, chúng con ngồi lại cho việc thảo luận Giáo Pháp trọn đêm. Bạch ngài, chúng con sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế ấy.

Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi du hành về phía Pārileyyaka. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Pārileyyaka. Tại nơi đó, ở Pārileyyaka đức Thế Tôn sống trong khu rừng cây được bảo vệ, dưới gốc cây Sāla xinh đẹp.

[249] Đức Thế Tôn và con long tượng ở Pārileyyaka

[249] Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trước đây, ta đã sống không thoải mái bị quấy rầy bởi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không người thứ hai, thoát khỏi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng.”

Có con long tượng nọ sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được nó bẻ gãy rời ra. Và nó uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi nó vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Ta sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Hay là ta nên sống một mình, tách ra khỏi đám đông?” Sau đó, con long tượng ấy tách khỏi bầy đi đến Pārileyyaka, chỗ khu rừng cây được bảo vệ, nơi gốc cây Sāla xinh đẹp, gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã dùng vòi phục vụ đức Thế Tôn nước uống, nước rửa, và dọn sạch cây cỏ. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Trước đây ta đã sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và đã nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng đã nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta đã uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái đã chạy lại cọ xát vào thân. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không hai, thoát khỏi các con voi, các con voi cái, các con voi tơ, và các con voi bé.” Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi hiểu được sự tách ly của bản thân đã dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của con long tượng ấy, rồi vào lúc ấy đã thốt lên lời cảm hứng rằng:

Voi chúa có ngà bự

cùng với chúa loài người,

tâm với tâm hợp nhất

vui rừng thẳm một mình.

[250] Sau đó, khi đã ngự tại Pārileyyaka theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.

[251] Phản ứng của các cư sĩ ở Kosambī

[251] Khi ấy, các cư sĩ ở Kosambī đã khởi ý điều này: “Các ngài tỳ khưu ở Kosambī này là những người đã làm nhiều điều không lợi ích cho chúng ta. Đức Thế Tôn bị quấy rầy bởi các vị này nên đã bỏ đi, vậy thì chúng ta không nên đảnh lễ các ngài tỳ khưu ở Kosambī, không nên đứng dậy chào, không nên thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không nên tôn trọng, không nên cung kỉnh, không nên sùng bái, không nên cúng dường, không nên bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến; như thế ấy các vị này trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi chúng ta, và khi đã không còn được tôn trọng các vị hoặc là sẽ bỏ đi, hoặc là sẽ hoàn tục, hoặc là sẽ có niềm tin nơi đức Thế Tôn.” Sau đó, các cư sĩ ở Kosambī đã không đảnh lễ, không đứng dậy chào, không thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không tôn trọng, không cung kỉnh, không sùng bái, không cúng dường, không bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến. Khi ấy, các tỳ khưu ở Kosambī trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi các cư sĩ ở Kosambī, và khi đã không còn được tôn trọng nữa đã nói như vầy:

- Này các đại đức, vậy thì chúng ta nên đi Sāvatthi và giải quyết sự tranh tụng này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.

Sau đó, các tỳ khưu ở Kosambī đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát đi đến thành Sāvatthi.

[252] Sự nhận biết người nói sai Pháp hoặc đúng Pháp do mười tám sự việc

[252] Đại đức Sāriputta đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.

- Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?

- Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Phi Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố Luật là: “Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Vô tội;” tuyên bố phạm tội là: “Phạm tội;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội không xấu xa.” Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

[253] Sự quan tâm của các tỳ khưu trưởng lão ở thành Sāvatthi

[253] Rồi đại đức Mahāmoggallāna đã nghe rằng: ...(như trên)... Rồi đại đức Mahākassapa đã nghe, rồi đại đức Mahākaccāna đã nghe, rồi đại đức Mahākoṭṭhita đã nghe, rồi đại đức Mahākappina đã nghe, rồi đại đức Mahācunda đã nghe, rồi đại đức Anuruddha đã nghe, rồi đại đức Revata đã nghe, rồi đại đức Upāli đã nghe, rồi đại đức Ānanda đã nghe, rồi đại đức Rāhula đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Rāhula đã nói với đức Thế tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này Rāhula, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.

- Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?

- Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. ...(như trên)... Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. ...(như trên)... Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.

[254] Rồi bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nghe rằng: : “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nói với đức Thế tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng tỳ khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng tỳ khưu thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp.

[255] Rồi gia chủ Anāthapiṇḍika đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.

[256] Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này bà Visākhā, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.

[257] Các vị tỳ khưu ở Kosambī đi đến thành Sāvatthi để gặp đức Thế Tôn

[257] Sau đó, theo tuần tự các tỳ khưu ở Kosambī đã đến được thành Sāvatthi. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đã đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên tiến hành chỗ trú ngụ cho các tỳ khưu ấy như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.

- Bạch ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta, nhưng không vì bất cứ lý do gì mà ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị tỳ khưu thâm niên hơn;” vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaa (tác ác).

- Bạch ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?

- Này Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả.

[258] Sự phục hồi vị tỳ khưu bị án treo. Sự hợp nhất hội chúng

[258] Sau đó, vị tỳ khưu bị án treo ấy trong khi suy xét về Pháp và Luật đã khởi ý điều này: “Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Ta bị phạm (tội), ta không phải là không phạm (tội). Ta bị án treo, ta không phải là không bị án treo. Ta đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì.” Khi ấy, vị tỳ khưu bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:

- Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.

Khi ấy, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đưa vị tỳ khưu bị án treo ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, vị tỳ khưu bị án treo này đã nói như vầy: “Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?

- Này các tỳ khưu, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy bị phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo. Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, và nhìn nhận. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hãy phục hồi cho vị tỳ khưu ấy.

Sau đó, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã phục hồi cho vị tỳ khưu bị án treo ấy rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này:

- Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.

Sau đó, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã nói như vầy: “Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?

- Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Và này các tỳ khưu, nên được tiến hành như vầy:

Toàn bộ tất cả gồm các vị bị bệnh và không bị bệnh nên tụ hội lại một chỗ, và không một ai được phép gởi lời tùy thuận. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Hội chúng tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đại đức nào đồng ý việc tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy đã được hội chúng tiến hành. Sự chia rẽ hội chúng đã được dàn xếp. Sự bất đồng hội chúng đã được dàn xếp. Sự đấu khẩu trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự khác biệt trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Lập tức sau đó, lễ Uposatha nên được tiến hành. Giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng.

[259] Các câu hỏi của ngài Upāli về sự hợp nhất hội chúng

[259] Sau đó, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định nguyên nhân không đúng rồi tiến hành sự hợp nhất hội chúng; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?

- Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là sai Pháp.

- Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?

- Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp.

- Bạch ngài, sự hợp nhất hội chúng có bao nhiêu loại?

- Này Upāli, sự hợp nhất hội chúng có hai loại. Này Upāli, có sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích (atthāpetā) chỉ đạt được từ ngữ (byañjanupetā) và có loại vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ.[2] Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ. Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ. Này Upāli, đây là hai sự hợp nhất hội chúng.

Sau đó, đại đức Upāli đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay lên cúi chào đức Thế Tôn, rồi trình lên đức Thế Tôn những lời kệ này:

[260] Bài kệ của ngài Upāli

[260]

Trong những việc phận sự,

cuộc thảo luận, điều tra,

những vấn đề sanh khởi

thuộc về của hội chúng,

ở đây hạng người nào

đem lại nhiều lợi ích?

ở đây tỳ khưu nào

xứng là vị tiên phong?

Giới luật được xét đầu

vị không bị chê bai

sở hành được xem xét,

(sáu) căn được canh phòng.

Ngay những kẻ đối đầu

đúng Pháp không thể trách

hay gièm pha vị ấy

bởi vì chẳng có chi.

Vị như thế tồn tại

nhờ giới đã thanh tịnh

vị có niềm tự tín

đối đáp được suốt thông,

vị đi vào đám đông

không run không sợ hãi

vị nói có mục đích

không bỏ lở chủ đề.

Cũng thế giữa hội chúng

được hỏi một vấn đề

vị ấy không ngần ngại

và không gì xấu hổ

vị ấy nói đúng thời

lời giải thích xứng đáng

vị thông minh rạng rỡ

hội chúng bậc thức tri.

Vị ấy luôn tôn kính

các tỳ khưu trưởng thượng

và đặt trọn niềm tin

ở bậc thầy vị ấy,

có khả năng nắm bắt

rành rẽ điều được học

vị biết cách chận đứng

(lời) những kẻ nghịch thù.

Những kẻ là đối thủ

đành chịu thế quy hàng

đám đông người hành theo

điều được người giảng rõ.

Bản thân không xao lãng

niềm tin của chính mình,

có những câu hỏi đáp

không thương tổn tha nhân.

Có khả năng hiểu rõ

trong công việc đưa tin

hành sự của hội chúng

theo như lời căn dặn.

Chuyển việc làm lời nhắn

của nhóm các tỳ khưu

không vì thế suy nghĩ

“Ta đang làm công việc.”

Khi một ai phạm tội

dẫu có lắm nguồn cơn

như thế nào các tội

và phương thức thoát ra,

các bộ phân tích ấy

lưỡng phái được truyền thừa

vị thiện xảo chi tiết

việc thoát ra các tội.

Vị bị phạt cách ly

từ những sở hành nào,

và vị bị tách ra

các phận sự thế nào,

việc phục hồi điều ấy

cho vị đã sống qua

rành rẽ việc phân tích

điều ấy cũng được biết.

Vị ấy luôn tôn kính

các tỳ khưu trưởng thượng

mới tu và trưởng lão,

hoặc các vị trung niên,

ở đây bậc trí tuệ

đem lợi ích nhiều người

tỳ khưu như thế ấy

xứng lãnh đạo nơi đây.

Hết Chương 10 Kosambī

Tóm lược chương này:

[261] Bài kệ tóm lược

[261]

Bậc Chiến Thắng cao cả

ở tại Kosambī

tranh cãi việc thấy tội

có thể ban án treo

trong tội ấy là tội

mà vị ấy thấy được,

nơi ấy trong ranh giới.

Ngôi làng Bālaka

vườn cây Pācīna,

rừng Pārileyyā,

và thành Sāvatthi,

ngài Sāriputta,

và ngài Kolita,

Mahākassapa,

Mahākaccāna,

ngài Mahācunda,

ngài Anuruddha,

rồi ngài Revata,

và ngài Upāli,

cả ngài Ānanda,

ngài Rāhula nữa,

vị ni Gotamī,

rồi ông Cấp Cô Độc,

và bà Visākhā

mẹ của Migāra,

chỗ trú ngụ cách biệt

tài vật được đồng đều,

không ai gởi tùy thuận.

Upāli vấn hỏi

sự không bị chê trách

do giới thành hợp nhất

lời dạy bậc Chiến Thắng.

Hết Đại Phẩm

[1] ... đã thực hiện sự va chạm bằng tay (dịch sát nghĩa).

[2] Chúng tôi nghĩ rằng có thể dùng hai từ “nội dung” và “hình thức” trong trường hợp này.

Hết Chương 10Hết Đại PhẩmQuay Về Mục Lục Chương 10

Quay Về Mục Lục Đại Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật


0 Comments