Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Phân Tích Giới Tỳ Khưu (Bhikkhuvibhanga)
Tập 1
Chương 3. Pārājika (Tatiyapārājikakaṇḍaṃ)
Tội giết người
Mục Lục
1. Tụng phẩm thứ nhất
[176] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu
[178] Định hơi thở ra hơi thở vào
[179] Sự quy định lần thứ nhất
[180] Câu chuyện về các tỳ-khưu nhóm Lục Sư. Sự quy định thêm
[181] Giải nghĩa từ ngữ của điều học pārājika thứ ba
[187] Các tiêu đề của sự phân tích
[189] Các trường hợp phạm tội
[203] Các trường hợp không phạm tội
2. Tụng phẩm thứ nhì
[204] Bài kệ về các câu chuyện dẫn giải
[205] Các câu chuyện dẫn giải
Nội Dung
1. Tụng phẩm thứ nhất
[176] Câu chuyện về nhiều vị tỳ-khưu
[176] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự ở thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh cho các tỳ khưu một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta muốn thiền tịnh trong nửa tháng. Không ai đến
gặp ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.
- Bạch ngài, xin vâng. Các vị tỳ khưu ấy đã trả lời đức Thế Tôn.
Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một
vị mang lại vật thực. Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Quả thật, đức Thế Tôn thuyết
giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập
về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh một cách cặn
kẽ bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú gắn bó vào việc tu tập
về (đề mục) bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy bị khổ sở, bị xấu hổ,
và nhờm gớm với cơ thể của chính mình cũng giống như người nữ hoặc người nam
còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội đầu bị khổ sở, bị
xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người chết máng vào cổ;
tương tợ như thế, các vị tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm
với cơ thể của chính mình, (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của chính mình,
(một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika
rồi nói như vầy:
- Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của chúng tôi, y
và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.
Sau đó, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và
bình bát đã đoạt lấy mạng sống nhiều vị tỳ khưu rồi cầm cây gươm đẫm máu đi đến
giòng sông Vaggumudā. Khi ấy, trong lúc chùi rửa cây gươm đẫm máu ấy sa-môn giả
mạo Migalaṇḍika đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều
không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt
được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Quả thật ta đã gây ra nhiều điều
bất thiện là việc ta đã đoạt lấy mạng sống của các vị tỳ khưu có giới hạnh có
thiện pháp!” Khi ấy, có vị thiên nhân nọ là tùy tùng của Ma Vương đã đi đến ở
trên mặt nước (nhưng mặt nước sông) vẫn không bị làm chao động và đã nói với
sa-môn giả mạo Migalaṇḍika điều này:
- Này kẻ thiện nhân, tốt lắm, tốt lắm! Này kẻ thiện nhân, điều lợi
ích đã có cho ngươi! Này kẻ thiện nhân, ngươi đã đạt được điều tốt! Này kẻ thiện
nhân, ngươi đã tạo nên nhiều điều thiện là việc ngươi đã giải thoát cho những kẻ
chưa được giải thoát![1]
Khi ấy, sa-môn giả mạo Migalaṇḍika (nghĩ rằng): “Nghe nói điều lợi
ích đã có cho ta! Nghe nói ta đã đạt được điều tốt! Nghe nói ta đã tạo nên nhiều
điều thiện là việc ta đã giải thoát cho những kẻ chưa được giải thoát!” rồi cầm
cây gươm bén đi đến từ trú xá này đến trú xá khác, từ phòng này đến phòng khác
nói như vầy:
- Vị nào chưa giải thoát? Ta giải thoát cho vị nào đây?
Tại nơi ấy, những vị tỳ khưu nào chưa dứt bỏ tham ái thì các vị ấy,
vào thời điểm ấy, trở nên sợ hãi, thân run rẩy, lông dựng đứng. Còn những vị tỳ
khưu nào đã dứt bỏ tham ái thì các vị ấy, vào thời điểm ấy, không trở nên sợ
hãi, thân không run rẩy, lông không dựng đứng. Rồi sa-môn giả mạo Migalaṇḍika
trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống một vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy
mạng sống hai vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba vị tỳ khưu,
trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống bốn vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy
mạng sống năm vị tỳ khưu, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống
mười vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống hai mươi vị tỳ khưu,
trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống ba mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt
lấy mạng sống bốn mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống năm
mươi vị tỳ khưu, trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống sáu mươi vị tỳ khưu.
[177] Sau đó, khi trải qua nửa tháng ấy, đức Thế Tôn đã xuất khỏi
thiền tịnh và bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, có phải hội chúng tỳ khưu dường như bị ít đi?
- Bạch ngài, sở dĩ như thế là vì đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề
mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục)
bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục) bất tịnh cho các tỳ khưu một cách
cặn kẽ bằng nhiều phương thức. Và bạch ngài, các vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Quả
thật, đức Thế Tôn thuyết giảng về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen về (đề mục) bất
tịnh, ngợi khen sự tu tập về (đề mục) bất tịnh, ngợi khen sự chứng đạt về (đề mục)
bất tịnh một cách cặn kẽ bằng nhiều phương thức,” rồi các vị ấy sống chuyên chú
gắn bó vào việc tu tập về (đề mục) bất tịnh do nhiều động cơ khác nhau. Các vị ấy
bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình. Cũng giống như người
nữ hoặc người nam còn trẻ, ở tuổi thanh niên, ưa thích trang điểm, vừa mới gội
đầu bị khổ sở, bị xấu hổ, và nhờm gớm với xác rắn, hoặc xác chó, hoặc thây người
chết máng vào cổ; tương tợ như thế, các vị tỳ khưu ấy trong khi bị khổ sở, bị xấu
hổ, và nhờm gớm với cơ thể của chính mình (một số) tự mình đoạt lấy mạng sống của
chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến gặp sa-môn giả
mạo Migalaṇḍika rồi nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống
của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi.” Bạch ngài, rồi sa-môn giả
mạo Migalaṇḍika được trả công bằng các y và bình bát trong một ngày đã đoạt lấy
mạng sống một vị tỳ khưu, ...(như trên)... trong một ngày đã đoạt lấy mạng sống
sáu mươi vị tỳ khưu. Bạch ngài, lành thay xin đức Thế Tôn hãy chỉ dạy phương
pháp khác theo đó hội chúng tỳ khưu này có thể đạt được trí giải thoát.
- Này Ānanda, như thế thì có bao nhiêu tỳ khưu sống nương tựa vào
thành Vesālī, ngươi hãy triệu tập tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp.
- Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.
Rồi có bao nhiêu tỳ khưu sống nương tựa vào thành Vesālī, đại đức
Ānanda sau khi triệu tập tất cả các vị ấy ở tại phòng hội họp rồi đã đi đến gặp
đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hội chúng tỳ khưu đã được triệu tập. Bạch ngài, bây
giờ là thời điểm của việc gì xin đức Thế Tôn hãy suy tính (về việc ấy).
[178] Định hơi thở ra hơi thở
vào
[178] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến phòng hội họp, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được
tu tập, được làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc
là sự an trú, làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất
thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi. Này các tỳ khưu, cũng giống như cơn mưa lớn
sái mùa vào tháng cuối của mùa nóng làm biến mất ngay lập tức và làm lắng xuống
các bụi bặm đã bốc lên; này các tỳ khưu, tương tợ như thế định của niệm hơi thở
ra hơi thở vào này được tu tập, được làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao
quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch
lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh hoặc chưa sanh khởi. Và này các tỳ khưu,
thế nào là định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập? Thế nào là được
làm cho tăng trưởng, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an trú
làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã sanh
hoặc chưa sanh khởi ? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc
đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già,
giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm, vị ấy thở ra; có niệm,
vị ấy thở vào.[2] Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra dài;”
hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vào dài.” Hoặc trong khi thở
ra ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra ngắn;” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy
biết rõ: “Tôi thở vào ngắn.”[3] “Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở
ra”[4] vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ toàn bộ hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực
tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập,
“Làm cho an tịnh các thành phần của hơi thở, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập.
“Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ hỷ, tôi sẽ thở
vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ lạc, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết
rõ lạc, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Nhận biết rõ các thành phần của tâm,
tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ các thành phần của tâm, tôi sẽ thở
vào” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở ra” vị
ấy thực tập, “Làm cho an tịnh các thành phần của tâm, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực
tập. “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Nhận biết rõ tâm, tôi sẽ
thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập,
“Tâm được hân hoan, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ
thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được định tĩnh, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập.
“Tâm được giải thoát, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Tâm được giải thoát, tôi
sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “ Quán xét về vô thường, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực
tập, “Quán xét về vô thường, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Quán xét về ly
tham, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về ly tham, tôi sẽ thở vào” vị ấy
thực tập. “Quán xét về đoạn diệt, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập, “Quán xét về
đoạn diệt, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở ra”
vị ấy thực tập, “Quán xét về dứt bỏ, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập. Này các tỳ
khưu, định của niệm hơi thở ra hơi thở vào này được tu tập như thế, được làm
cho tăng trưởng như thế, được thanh tịnh, cao quý, thuần khiết, có lạc là sự an
trú làm biến mất ngay lập tức và làm cho tịch lặng các pháp ác và bất thiện đã
sanh hoặc chưa sanh khởi.
[179] Sự quy định lần thứ nhất
[179] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu (một số) tự mình đoạt lấy
mạng sống của chính mình, (một số) đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, (một số) đi đến
gặp sa-môn giả mạo Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt
mạng sống của chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những tỳ khưu ấy, thật
không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên
làm! Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ấy lại tự mình đoạt lấy mạng sống của
chính mình, lại đoạt lấy mạng sống lẫn nhau, lại đi đến gặp sa-môn giả mạo
Migalaṇḍika nói như vầy: “Này đạo hữu, tốt thay ngươi hãy đoạt mạng sống của
chúng tôi, y và bình bát này sẽ thuộc về ngươi” vậy? Này các tỳ khưu, sự việc
này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và
này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố
ý đoạt lấy mạng sống con người hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy; vị
này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.” Và điều học này đã được
đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[180] Câu chuyện về các tỳ-khưu
nhóm Lục Sư. Sự quy định thêm
[180] Vào lúc bấy giờ, có người nam cư sĩ nọ bị bệnh. Vợ của người ấy thì đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đem lòng say đắm người đàn bà ấy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã bàn bạc rằng: “Này các đại đức, nếu người nam cư sĩ ấy còn sống thì chúng ta sẽ không đạt được người đàn bà ấy. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ ấy.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi đến gặp người nam cư sĩ ấy, sau khi đến đã nói với người nam cư sĩ ấy điều này:
- Này cư sĩ, quả thật ngươi có điều tốt đã làm, có điều thiện đã
làm, sự sợ hãi lúc lâm chung đã được khắc phục (katabhīruttāṇo), có điều ác
không làm, điều tàn bạo không làm, điều tội lỗi không làm, ngươi đã làm điều tốt
đẹp, ngươi đã không làm điều ác, vậy thì còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi
xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi
thọ đã hết, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được sanh về cảnh giới tốt
đẹp là cõi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục
lạc thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.
Khi ấy, người nam cư sĩ ấy (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã nói
sự thật bởi vì ta là người có điều tốt đã làm, có điều thiện đã làm, sự sợ hãi
lúc lâm chung đã được khắc phục, có điều ác không làm, điều tàn bạo không làm,
điều tội lỗi không làm, ta đã làm điều tốt đẹp, ta đã không làm điều ác, vậy
thì còn gì cho ta với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ta còn tốt
hơn sự sống vậy. Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã hết, khi tan rã thân xác và chết
đi, ta sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là cõi trời, loài người. Ở đó, được
cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc thiên đường, ta sẽ mãn nguyện.” Và
người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai những vật thực cứng
không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và đã uống những thức uống
không thích hợp. Khi người ấy đã ăn những vật thực mềm không thích hợp, đã nhai
những vật thực cứng không thích hợp, đã nếm những thức nếm không thích hợp, và
đã uống những thức uống không thích hợp, cơn bệnh ngặt nghèo đã phát khởi.
Chính vì cơn bệnh ấy, người ấy đã từ trần. Vợ của người ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa,
nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an
tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này
không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này
đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị
này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã
không còn! Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích
của sự chết đến chồng của tôi. Chồng của tôi đã bị giết chết bởi các vị này.
Những người khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này không có khiêm tốn, ác giới, nói láo. Bởi
vì các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm
hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp (nhưng) các vị này không
có sa-môn hạnh! Các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị
hư hỏng! Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu
rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn!
Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Các vị này đã ca ngợi lợi ích của sự chết
đến người nam cư sĩ. Người nam cư sĩ đã bị giết chết bởi các vị này.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê
bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ca ngợi lợi ích của sự chết
đến người nam cư sĩ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đã ca ngợi lợi ích của sự
chết đến người nam cư sĩ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt
đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại,
vì sao các ngươi lại ca ngợi lợi ích của sự chết đến người nam cư sĩ vậy? Này
những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này
như vầy: “Vị tỳ khưu nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người, hoặc tìm cách đem lại
vũ khí cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự
chết: “Này người ơi, còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết
đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!” Vị có tâm ý và có tâm tư như thế rồi bằng
nhiều phương thức ca ngợi lợi ích của sự chết hoặc xúi giục đưa đến sự chết, vị
này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[181] Giải nghĩa từ ngữ của điều
học pārājika thứ ba
[181] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập
trong ý nghĩa này.
Cố ý: là sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi
đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Con người nghĩa là vật gì ở khoảng giữa thời gian từ lúc tâm đầu
tiên được sanh lên (tức là) thức đầu tiên hiện hữu trong bụng mẹ cho đến lúc chết;
vật ấy gọi là con người
Đoạt lấy mạng sống: cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại
sự tiếp nối.
Hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy: hoặc là thanh gươm, hoặc
là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc là tảng
đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng.
[182] Hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự nguy
hiểm trong sự sống và nói khen ngợi về sự chết.
[183] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại
cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết
đi.”
[184] Này người ơi: Đây là lối nói xưng hô “Này người ơi!”
Còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với
ngươi còn tốt hơn sự sống: Cuộc sống nghĩa là tội lỗi. So với cuộc sống của những
người giàu, cuộc sống của những người nghèo là tội lỗi. So với cuộc sống của những
người có tài sản, cuộc sống của những người không có tài sản là tội lỗi. So với
cuộc sống của chư thiên, cuộc sống của loài người là tội lỗi.
Mạng sống xấu xa nghĩa là đối với người bị cụt tay, đối với người
bị cụt chân, đối với người bị cụt tay và chân, đối với người bị đứt tai, đối với
người bị đứt mũi, đối với người bị đứt tai và mũi (nói rằng): “Còn gì với sự tội
lỗi này, với mạng sống xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!”
Có tâm ý như thế: Ý nào tâm nấy, tâm nào ý nấy.
Có tâm tư: có sự suy tưởng về sự chết, có sự suy tư về sự chết,
có sự suy nghĩ về sự chết
Bằng nhiều phương thức: bằng nhiều cách khác nhau.
Ca ngợi lợi ích của sự chết: làm cho thấy được sự bất hạnh trong
mạng sống và nói lời khen ngợi về sự chết: “Từ chỗ này, khi tuổi thọ đã hết,
khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi sẽ được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp là
cõi trời, loài người. Ở đó, được cung phụng và được sở hữu năm loại dục lạc
thiên đường, ngươi sẽ mãn nguyện.”
[185] Hoặc xúi giục đưa đến sự chết: (Nói rằng): “Hãy mang lại
cây kiếm, hoặc hãy nhai thuốc độc, hoặc hãy dùng dây thừng treo lên rồi chết
đi, hoặc nhảy vào khe nứt, vào hố sâu, xuống vực thẳm.”
[186] Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tảng đá lớn bị bể làm hai
không thể gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỳ khưu cố ý đoạt lấy mạng sống
con người thì không phải là sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế được gọi là
“vị phạm tội pārājika.”
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có
chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi
là sự cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng
trú.”
[187] Các tiêu đề của sự phân
tích
[187] Tự mình, bằng cách khẳng định, bằng người đưa tin, bằng người đưa tin theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin không theo lối dây chuyền, bằng người đưa tin đã đi rồi quay trở lại, hiện diện nghĩ là không hiện diện, không hiện diện nghĩ là hiện diện, hiện diện nghĩ là hiện diện, không hiện diện nghĩ là không hiện diện, vị ca ngợi bằng thân, vị ca ngợi bằng lời nói, vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nói, vị ca ngợi bằng người đưa tin, vị ca ngợi bằng chữ khắc, cái hố đào, sự trợ giúp, việc để bên cạnh, dược phẩm, sự đem lại cảnh sắc, sự đem lại cảnh thinh, sự đem lại cảnh khí, sự đem lại cảnh vị, sự đem lại cảnh xúc, sự đem lại cảnh pháp, sự chỉ bảo, sự dạy dỗ, hành động theo giờ hẹn, hành động theo dấu hiệu.
[188] Tự mình: vị đích thân giết bằng (cách sử dụng) thân thể
(tay, chân, nắm đấm, đầu gối, v.v...), hoặc bằng vật dính liền với thân thể
(gươm, dao, v.v...), hoặc bằng vật được phóng ra (ví dụ mũi tên).
Bằng cách khẳng định: sau khi khẳng định rồi ra lệnh rằng: “Ngươi
hãy đâm như vầy, hãy đánh như vầy, hãy giết như vầy.”
[189] Các trường hợp phạm tội
[189] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người
tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người ấy rồi đoạt
lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội
pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người
tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt
lấy mạng sống của người ấy thì cả hai phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người
tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia nhận biết người khác rồi đoạt
lấy mạng sống của người khác thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội
pārājika.
[190] Vị tỳ khưu (A)[5] chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị
tên (C) rằng: Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy đoạt lấy
mạng sống người tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị (nào)
nói cho vị khác thì vị (nói) ấy phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị giết người (D) đồng
ý thì vị khởi xướng (A) phạm tội thullaccaya (trọng tội); vị ấy (D) đoạt lấy mạng
sống của người ấy thì tất cả đều phạm tội pārājika.
Vị tỳ khưu (A) chỉ thị vị tỳ khưu (B) rằng: “Hãy bảo vị tên (C) rằng:
Vị tên (C) hãy nói với vị tên (D) rằng: ‘Vị tên (D) hãy đoạt lấy mạng sống người
tên như vầy’” thì vị ấy (A) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ấy (B) chỉ thị vị
khác (D) thì vị ấy (B) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị giết người (D) đồng ý thì
vị ấy (D) phạm tội dukkaṭa (tác ác); vị ấy (D) đoạt lấy mạng sống của người ấy
thì vị khởi xướng (A) vô tội, vị truyền chỉ thị (B) và vị giết người (D) phạm tội
pārājika.
[191] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống
người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia đi rồi quay trở lại
(nói rằng): “Tôi không thể đoạt lấy mạng sống người ấy.” Vị ấy lại chỉ thị
thêm: “Khi nào ngươi có thể thì khi ấy ngươi hãy đoạt lấy mạng sống người ấy”
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị kia đoạt lấy mạng sống người ấy thì cả hai phạm
tội pārājika.
[192] Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống
người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự
hối hận nhưng không nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia đoạt lấy
mạng sống người ấy thì cả hai phạm tội pārājika. Vị tỳ khưu chỉ thị vị tỳ khưu
rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị kia nghe rằng: “Chớ có
giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tôi đã được ngài chỉ thị” rồi đoạt lấy mạng sống
người ấy thì vị khởi xướng vô tội, còn vị giết người phạm tội pārājika. Vị tỳ
khưu chỉ thị vị tỳ khưu rằng: “Hãy đoạt lấy mạng sống người tên như vầy” thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi chỉ thị, vị ấy có sự hối hận rồi nói rõ cho vị
kia nghe rằng: “Chớ có giết.” Vị kia (đáp lại rằng): “Tốt thôi” rồi ngưng lại
thì cả hai vô tội.
[193] Hiện diện, nghĩ là không hiện diện rồi xác định rằng: “Người
tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không hiện diện, nghĩ
là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác). Hiện diện, nghĩ là hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên
như vầy nên bị giết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không hiện diện, nghĩ là
không hiện diện rồi xác định rằng: “Người tên như vầy nên bị giết” thì phạm tội
dukkaṭa (tác ác).
[194] Vị ca ngợi bằng thân nghĩa là vị làm cử chỉ bằng thân: “Người
nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh
về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết
theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng lời nói nghĩa là vị phát ngôn bằng lời nói: “Người
nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh
về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết
theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng thân và bằng lời nói nghĩa là vị làm cử chỉ bằng
thân và phát ngôn bằng lời nói: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài
sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác). (Đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm
thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì
(vị ấy) phạm tội pārājika.
[195] Vị ca ngợi bằng người đưa tin nghĩa là vị nói ra lời chỉ dẫn
cho người đưa tin: “Người nào chết như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt
được danh vọng, hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi
nghe lời chỉ dẫn của người đưa tin, (đối tượng nghĩ rằng): “Ta sẽ chết theo
cách khen ngợi ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng
tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Vị ca ngợi bằng chữ khắc nghĩa là vị khắc chữ: “Người nào chết
như vầy, người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng, hoặc sanh về cõi
trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác) với mỗi mẫu tự. (Đối tượng) sau khi nhìn thấy
chữ khắc (nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[196] Cái hố đào nghĩa là vị đào cái hố dành cho người (nghĩ rằng):
“Người rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm
thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội).
(Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
(Vị) đào cái hố không dành riêng cho ai (nghĩ rằng): “Bất cứ ai
rơi xuống sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Nếu) con người rơi vào cái hố
ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi xuống, cảm thọ khổ sanh
khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng)
chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Nếu) dạ-xoa, hoặc ngạ quỷ, hoặc thú có
dạng người rơi vào cái hố ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị
rơi xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa
(tác ác). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Nếu)
thú vật rơi vào cái hố ấy thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã bị rơi
xuống, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa (tác
ác). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[197] Sự trợ giúp nghĩa là trong sự trợ giúp (vị ấy) đặt vũ khí,
hoặc thoa thuốc độc, hoặc làm cho yếu đi, hoặc đem để ở chỗ khe nứt hoặc ở hố
sâu hoặc nơi vực thẳm (nghĩ rằng): “Với việc này, người rơi xuống sẽ chết” thì
phạm tội dukkaṭa (tác ác). Do vũ khí, hoặc do thuốc độc, hoặc do bị rơi xuống
khiến cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya
(trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[198] Việc để bên cạnh nghĩa là đem lại gần bên hoặc là thanh
gươm, hoặc là cây giáo, hoặc là mũi tên, hoặc là cọc nhọn, hoặc là đùi cui, hoặc
là tảng đá, hoặc là cây kiếm, hoặc là thuốc độc, hoặc là dây thừng (nghĩ rằng):
“(Người ấy) sẽ chết bằng vật này” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng)
(nghĩ rằng): “Ta sẽ chết bằng vật ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm
tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[199] Dược phẩm nghĩa là vị trao cho bơ lỏng (sappi), bơ đặc
(navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phānitaṃ) (nghĩ rằng):
“Sau khi nếm vật này (người ấy) sẽ chết” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Trong
khi nếm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi (cho đối tượng) thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya
(trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[200] Sự đem lại cảnh sắc nghĩa là vị đem lại cảnh sắc trái ý, dễ
sợ, khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị
hoảng hốt và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nhìn thấy cảnh sắc
ấy, (đối tượng) bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối
tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh sắc hợp ý, dễ
thương, đáng yêu (nghĩ rằng): “Sau khi nhìn thấy cảnh sắc này (người ấy) sẽ bị
thất vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi
nhìn thấy cảnh sắc ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy)
phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh thinh nghĩa là vị đem lại cảnh thinh trái ý, dễ sợ,
khủng khiếp (nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt
và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được tiếng ấy, (đối tượng)
bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi
thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh thinh hợp ý, dễ thương, đáng
yêu (nghĩ rằng): “Sau khi nghe được tiếng này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì
không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được tiếng
ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya
(trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh khí nghĩa là vị đem lại cảnh khí trái ý, ghê tởm,
khó chịu (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó
chịu rồi chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi ngửi mùi ấy, (đối tượng)
có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị)
đem lại cảnh khí hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi ngửi mùi này (người ấy) sẽ bị thất
vọng vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi ngửi
mùi ấy, (đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh vị nghĩa là vị đem lại cảnh vị trái ý, ghê tởm,
khó chịu (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ có sự ghê tởm và khó chịu
rồi chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nếm thử vị ấy, (đối tượng)
có sự ghê tởm và khó chịu, cảm thọ khổ sanh khởi thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị)
đem lại cảnh vị hợp ý (nghĩ rằng): “Sau khi nếm vị này (người ấy) sẽ bị thất vọng
vì không đạt được và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nếm vị ấy,
(đối tượng) bị thất vọng vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng
tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh xúc nghĩa là vị đem lại cảnh xúc trái ý, gây đau
đớn, thô cứng (nghĩ rằng): “Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ chết đi” thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác). Khi (đối tượng) đụng chạm vật ấy, cảm thọ khổ sanh khởi
thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy)
phạm tội pārājika. (Vị) đem lại cảnh xúc hợp ý, gây khoái lạc, mềm mại (nghĩ rằng):
“Đụng chạm vào vật này (người ấy) sẽ bị thất vọng vì không đạt được và chết đi”
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đụng chạm vật ấy, (đối tượng) bị thất vọng
vì không đạt được thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết
đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự đem lại cảnh pháp nghĩa là vị thuyết bài giảng về địa ngục của
người đi địa ngục (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị hoảng hốt
và chết đi” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được điều ấy, (đối tượng)
bị hoảng hốt thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi
thì (vị ấy) phạm tội pārājika. (Vị) thuyết bài giảng về cõi trời của nghiệp
lành (nghĩ rằng): “Sau khi nghe điều này (người ấy) sẽ bị tác động rồi chết đi”
thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Sau khi nghe được điều ấy, (đối tượng) bị tác động
(nghĩ rằng): “Ta sẽ chết” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội thullaccaya
(trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[201] Sự chỉ bảo nghĩa là khi được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết
như vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng,
hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng):
“Ta sẽ chết theo cách chỉ bảo ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
Sự dạy dỗ nghĩa là khi không được hỏi, vị nói rằng: “Nên chết như
vầy, người nào chết như vầy người ấy đạt được tài sản, hoặc đạt được danh vọng,
hoặc sanh về cõi trời” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). (Đối tượng nghĩ rằng):
“Ta sẽ chết theo cách dạy dỗ ấy” rồi gây nên cảm thọ khổ thì (vị ấy) phạm tội
thullaccaya (trọng tội). (Đối tượng) chết đi thì (vị ấy) phạm tội pārājika.
[202] Hành động theo giờ hẹn nghĩa là quy định giờ hẹn hoặc là
trước bữa ăn, hoặc là sau bữa ăn, hoặc là ban đêm, hoặc là ban ngày. (Bảo rằng):
“Hãy đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác);
(nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy vào giờ hẹn ấy thì cả hai phạm tội
pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau giờ hẹn ấy thì
vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
Hành động theo dấu hiệu nghĩa là vị làm dấu hiệu (bảo rằng): “Tôi
sẽ nháy mắt, hoặc là tôi sẽ nhướng mày, hoặc là tôi sẽ ngẩng đầu lên, ngươi hãy
đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy” thì phạm tội dukkaṭa (tác ác); (nếu
vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy theo dấu hiệu ấy thì cả hai phạm tội
pārājika; (nếu vị kia) đoạt lấy mạng sống người ấy trước hay sau dấu hiệu ấy
thì vị khởi xướng vô tội còn vị giết người phạm tội pārājika.
[203] Các trường hợp không phạm
tội
[203] Vị không cố ý, vị không biết, vị không có ý muốn gây tử vong, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Hết tụng phẩm thứ nhất về tội
pārājika vì giết người
2. Tụng phẩm thứ nhì
[204] Bài kệ về các câu chuyện
dẫn giải
[204]
Việc ca ngợi, ngồi xuống,
chuyện chày và cối giã,
các vị già xuất gia,
mắc nghẹn thịt, thuốc độc,
ba chuyện làm nền đất,
ba chuyện khác về gạch,
lưỡi rìu, và khung gỗ,
giàn giáo, leo xuống, té,
hơ nóng, mũi, xoa bóp,
việc tắm, và thoa dầu,
nâng dậy, và xô ngã,
chết bởi vì cơm, nước,
có thai với nhân tình,
và người có hai vợ,
giết chết hai mẹ con,
cả hai không bị chết,
chà xát, và đốt nóng,
không sanh, còn sanh sản,
thọt lét, sự trả thù,
dạ-xoa, quỷ dữ tợn
và vị phái người đi,
tưởng vị ấy rồi giết,
giảng cõi trời, địa ngục,
ba chuyện về cây cối
ở thành Āḷavī,
ba chuyện khác về lửa,
chớ làm cho khổ sở,
không theo cách của ngài,
(cho uống) sữa còn bơ,
và cháo chua có muối.
[205] Các câu chuyện dẫn giải
[205] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu vì lòng trắc ẩn đã ca ngợi lợi ích của sự chết đến vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, các ngươi đã phạm tội pārājika.
[206] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ trong lúc ngồi
xuống đã đè lên đứa bé trai được phủ bởi tấm màn ở trên chiếc ghế và gây ra tử
vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Sau đó,
vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu,
khi chưa xem xét không nên ngồi xuống trên chỗ ngồi; vị nào ngồi xuống thì phạm
tội dukkaṭa (tác ác).
[207] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc sắp đặt chỗ ngồi
ở nhà ăn nơi xóm nhà đã cầm lấy một cái chày; khi cái chày được đưa lên cái
chày thứ hai đã rơi xuống và chạm mạnh vào đỉnh đầu của đứa bé trai nọ. Đứa bé
đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không cố ý.
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi sắp đặt chỗ ngồi ở
nhà ăn nơi xóm nhà đã bước lên vật dụng như cối giã khiến (chúng) quay tròn rồi
chạm mạnh vào đứa bé trai nọ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
[208] Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ
khưu. Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới. Người cha đã té xuống và chết
đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu.
Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha
đã té xuống và chết đi. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có hai cha con cùng xuất gia ở nơi các tỳ khưu.
Khi thời giờ được thông báo, đứa con trai đã nói với người cha điều này:
- Thưa cha, hãy đi. Hội chúng chờ đợi cha.
Rồi đã nắm lấy ở lưng và đẩy tới có ý muốn gây tử vong. Người cha
đã té xuống và không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[209] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc
nghẹn miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác đã vỗ vào cổ của vị tỳ khưu ấy.
Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi
hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn
miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của
vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia
đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang ăn đã bị mắc nghẹn
miếng thịt ở cổ họng. Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã vỗ vào cổ của
vị tỳ khưu ấy. Cục thịt đã rơi ra có dính máu. Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết.
Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[210] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ sau khi nhận
được vật thực có thuốc độc đã mang trở về và dâng các tỳ khưu nếm thử trước.
Các tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không biết (có độc).
- Này tỳ khưu, vị không biết thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn thử nghiệm đã trao
thuốc độc cho vị tỳ khưu khác. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi
hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con có ý muốn thử nghiệm.
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[211] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất
của trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm
lấy vụng về khiến viên đá chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị
tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của
trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý
muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī thực hiện nền đất của
trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa đá lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý
muốn gây tử vong nên đã thả viên đá ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của
trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm
lấy vụng về khiến viên gạch chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị
tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng bức tường của
trú xá. Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa gạch lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có
ý muốn gây tử vong nên đã thả viên gạch ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị
tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia
đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới.
Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy
vụng về khiến lưỡi rìu chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới.
Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa lưỡi rìu lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn
gây tử vong nên đã thả lưỡi rìu ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới.
Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị tỳ khưu ở phía trên nắm lấy
vụng về khiến khung gỗ chạm mạnh vào đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, không cố ý thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī xây dựng công trình mới.
Có vị tỳ khưu nọ ở bên dưới đã đưa khung gỗ lên. Vị tỳ khưu ở phía trên có ý muốn
gây tử vong nên đã thả khung gỗ ở đỉnh đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ
khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi xây dựng
công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu
khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết
đi. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?
- Bạch Thế Tôn, con không có ý muốn gây tử vong.
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi xây dựng
công trình mới buộc lại cái giàn giáo. Có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong
đã nói với vị tỳ khưu khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi buộc lại.
Vị ấy đã đứng ở chỗ ấy, trong khi buộc lại đã bị rơi xuống và chết
đi. ...(như trên)... đã bị rơi xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[212] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống.
Có vị tỳ khưu khác đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi.
Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ lợp xong trú xá và leo xuống.
Có vị tỳ khưu khác có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức, hãy leo xuống từ chỗ này.
Vị ấy trong khi leo xuống bằng chỗ ấy đã bị té xuống và chết đi.
...(như trên)... đã bị té xuống và không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[213] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bực bội bởi sự không
thỏa thích nên đã leo lên đỉnh núi Gijjhakūṭa và trong khi lao xuống vách núi
đã chạm người đan giỏ và gây ra tử vong. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu,
không nên lao mình xuống; vị nào lao xuống thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi leo lên núi
Gijjhakūṭa đã ném đá để đùa giỡn. Viên đá đã chạm vào người chăn bò nọ và gây
ra tử vong. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika. Và này các
tỳ khưu, không nên ném đá để đùa giỡn; vị nào ném thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
[214] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã
hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã hơ nóng vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ
khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu
đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh nóng đầu. Các tỳ khưu
có ý muốn gây tử vong đã cho vị ấy thuốc ở mũi. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi.
...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã xoa bóp
vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã xoa bóp vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ
khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã tắm cho
vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã tắm cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị tỳ
khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã thoa dầu
cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã thoa dầu cho vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị
tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã đỡ vị ấy
đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã đỡ vị ấy đứng dậy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị
tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã làm vị ấy
ngã xuống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã làm vị ấy ngã xuống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)...
Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã cho vị ấy
thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã cho vị ấy thức ăn. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)... Vị
tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã cho vị ấy
thức uống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu có ý muốn
gây tử vong đã cho vị ấy thức uống. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. ...(như trên)...
Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, các ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[215] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ có chồng đi vắng đã
mang thai với tình nhân. Cô ấy đã nói với vị tỳ khưu thường lui tới với gia
đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Vị ấy
đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô
không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ
khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn
bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Đứa bé trai đã chết đi. Người
mẹ đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô
không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ
khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn
bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Người mẹ đã chết đi. Đứa bé
trai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có hai người vợ, một cô
không sanh sản một cô còn sanh sản. Người đàn bà không sanh sản đã nói với vị tỳ
khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, nếu cô ấy sanh con thì cô ta sẽ là chủ nhân của toàn
bộ tài sản. Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc làm sẩy thai. Cả hai đã chết đi. ...(như
trên)... Cả hai đã không bị chết. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỳ khưu
thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, như thế thì hãy tự chà xát.
Cô ấy đã chà xát và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà có thai nọ đã nói với vị tỳ khưu
thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc làm sẩy thai đi.
- Này chị gái, như thế thì hãy đốt nóng.
Cô ấy đã đốt nóng và đã làm sẩy thai. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đã nói với vị
tỳ khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi có thể sanh sản
đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa
(tác ác).[6]
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà còn sanh sản nọ đã nói với vị tỳ
khưu thường lui tới với gia đình điều này:
- Thưa ngài, ngài hãy tìm thuốc men làm cho tôi không còn sanh sản
đi.
- Này chị gái, tốt thôi!
Rồi đã cho cô ấy thuốc men. Cô ấy đã chết đi. Vị ấy đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[216] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã làm cho vị tỳ
khưu nhóm Mười Bảy Sư cười bằng cách dùng ngón tay thọt lét. Vị tỳ khưu ấy
trong khi rối loạn không thở ra được nên đã chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi
hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).[7]
[217] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư (nghĩ rằng):
“Chúng ta sẽ gây chuyện” rồi chạm mạnh vào vị tỳ khưu nhóm Lục Sư khiến vị ấy
chết đi. Các vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).[8]
[218] Vào lúc bấy giờ, có
vị tỳ khưu nọ là vị đuổi tà ma đã đoạt lấy mạng sống của loài dạ-xoa. Vị ấy đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[219] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến
trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị
tỳ khưu khác đến trú xá có dạ-xoa dữ tợn. Các dạ-xoa đã đoạt lấy mạng sống vị ấy.
...(như trên)... Các dạ-xoa đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến khu
rừng hoang có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị
tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có thú dữ. Các thú dữ đã đoạt lấy mạng sống vị ấy.
...(như trên)... Các thú dữ đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phái vị tỳ khưu khác đến khu
rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng sống vị ấy. Vị kia
đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã phái vị
tỳ khưu khác đến khu rừng hoang có trộm cướp. Những kẻ trộm cướp đã đoạt lấy mạng
sống vị ấy. ...(như trên)... Những kẻ trộm cướp đã không đoạt lấy mạng sống vị ấy.
Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[220] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ nhận ra người ấy rồi đã
đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người ấy rồi đã đoạt lấy mạng sống người
khác, nhận ra người khác rồi đã đoạt lấy mạng sống người ấy, nhận ra người khác
rồi đã đoạt lấy mạng sống người khác. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
[221] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có
vị tỳ khưu khác đã đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết đi. Vị kia đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phi nhân chiếm giữ. Có vị tỳ
khưu khác có ý muốn gây tử vong đã đánh vào vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy đã chết
đi. ...(như trên)... Vị tỳ khưu ấy đã không bị chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[222] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết bài giảng về cõi
trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi. Vị (tỳ khưu) ấy đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong thuyết
bài giảng về cõi trời của nghiệp lành. Người ấy bị tác động nên đã chết đi.
...(như trên)... Người ấy bị tác động đã không bị chết. Vị (tỳ khưu) ấy đã có nỗi
nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ thuyết bài giảng về địa ngục của
người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết đi. Vị (tỳ khưu) ấy đã có
nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong thuyết
bài giảng về địa ngục của người đi địa ngục. Người ấy bị hoảng hốt nên đã chết
đi. ...(như trên)... Người ấy bị hốt hoảng đã không bị chết. Vị (tỳ khưu) ấy đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[223] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây trong
khi xây dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều
này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên
và giết chết. Vị kia đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây trong khi xây
dựng công trình mới. Có vị tỳ khưu nọ có ý muốn gây tử vong đã nói với vị tỳ khưu
khác điều này:
- Này đại đức, hãy đứng ở chỗ này rồi chặt.
Trong khi vị ấy đứng ở chỗ ấy đang chặt thì cái cây đã ngã đè lên
và giết chết. ...(như trên)... cái cây đã ngã đè lên và không giết chết. Vị kia
đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[224] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nổi lửa đốt rừng.
Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như
trên)...
- Này các tỳ khưu, vị không có ý muốn gây tử vong thì vô tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư có ý muốn gây tử vong đã
nổi lửa đốt rừng. Dân chúng bị đốt cháy đã chết đi. ...(như trên)... Dân chúng
bị đốt cháy đã không bị chết. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, (các ngươi) không phạm tội pārājika mà phạm tội
thullaccaya (trọng tội).
[225] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường
đã nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống
bằng một nhát.
- Thưa ngài, tốt thôi!
Rồi đã đoạt lấy mạng sống bằng một nhát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi đi đến pháp trường đã
nói với viên xử tử kẻ cướp điều này:
- Này đạo hữu, chớ để người này bị khổ sở. Hãy đoạt lấy mạng sống
bằng một nhát.
- Tôi sẽ không làm theo lời nói của ngài.
Rồi đã đoạt lấy mạng sống kẻ ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc:
...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa
(tác ác).
[226] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt
đứt ở trong nhà của gia tộc và có các thân quyến vây quanh. Có vị tỳ khưu nọ đã
nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này
không?
- Thưa ngài, đúng vậy. Chúng tôi muốn.
- Như thế thì hãy cho uống sữa còn bơ.
Họ đã cho người ấy uống sữa còn bơ. Người ấy đã chết đi. Vị ấy đã
có nỗi nghi hoặc: ...(như trên)...
- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ có tay và chân bị chặt đứt ở
trong nhà của gia tộc và được các thân quyến vây quanh. Có vị tỳ khưu ni nọ đã
nói với những người ấy điều này:
- Này các đạo hữu, các người có mong muốn cái chết của người này
không?
- Thưa ni sư, đúng vậy. Chúng tôi muốn.
- Như thế thì hãy cho uống cháo chua có muối.
Họ đã cho người ấy uống cháo chua có muối. Người ấy đã chết đi. Vị
ni ấy đã có nỗi nghi hoặc. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho
các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ
khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, tỳ khưu ni ấy đã phạm tội pārājika.
Hết điều pārājika thứ ba
[1] ... tvaṃ atiṇṇe tāresi:
Ngươi đã làm cho vượt qua (tāresi) những kẻ chưa được vượt qua (luân hồi).
[2] Theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa: “Assāsoti bahi nikkhamanavāto. Passāsoti anto pavisanavāto”
(Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong). Như
thế “assasati” là thở ra, “passasati” là thở vào, và phương pháp “Niệm hơi thở
ra hơi thở vào” được trình bày hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào. Từ điển
của Childers và A. P. Buddhadatta Mahā Thera cho nghĩa bị đảo lộn; có một vài bản
dịch cũng bị vướng phải điểm này.
[3] Trong bốn mệnh đề đầu, động
từ được sử dụng là “pajānāti = biết rõ” và có liên từ “vā = hay là, hoặc là”
xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là “sikkhati = thực tập, thực
hành, học tập.”
[4] Theo lời giải thích của
ngài Buddhaghosa, “sabbakāya” nên được hiểu là “phần đầu, phần giữa, và phần cuối
của toàn bộ hơi thở ra (sakalassa assāsakāyassa ādimajjhapariyosānaṃ) khi thở
ra hoặc toàn bộ hơi thở vào khi thở vào.”
[5] Chúng tôi thêm vào A, B,
C, D để cho dễ hiểu.
[6] Tội dukkaṭa (tác ác) vì
làm thầy thuốc (theo ngài Buddhaghosa).
[7] Liên quan đến điều
pācittiya (ưng đối trị) 52.
[8] Liên quan đến điều
pācittiya (ưng đối trị) 74.
Xem tiếp Chương 4 - Quay Về Mục Lục Phân Tích Giới Tì Khưu 1
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments