Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 08. Chương Phận Sự 14. Phận sự đối với học trò

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

8. Chương Phận Sự (Vattakkhandhakaṃ)

14. Phận sự đối với học trò

[444] Câu chuyện về các thầy dạy học

[445] Phận sự đối với học trò

[446] Bài kệ tóm lược

 [444] Vào lúc bấy giờ, các vị thầy dạy học không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò (antevāsikā). Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các vị thầy dạy học lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, nghe nói các vị thầy dạy học không thực hành phận sự đúng đắn đối với các người học trò, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự đối với các người học trò cho các vị thầy dạy học, các vị thầy dạy học đối với các người học trò nên thực hành đúng đắn theo như thế.

[445] Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người học trò. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:

Này các tỳ khưu, thầy dạy học nên quan tâm đến người học trò, nên giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy. Nếu thầy dạy học có bình bát và người học trò không có bình bát, thầy dạy học nên cho bình bát đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có y và người học trò không có y, thầy dạy học nên cho y đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có vật dụng và người học trò không có vật dụng, thầy dạy học nên cho vật dụng đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có thể phát sanh đến học trò?”

Nếu người học trò bị bệnh, (vị thầy dạy học) nên thức dậy vào lúc sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi nên đem cháo lại. Khi người học trò đã uống cháo xong, nên cho nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.

Nếu người học trò có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. (Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra nhận y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.

Nếu có đồ ăn khất thực và người học trò có ý muốn ăn thì nên trao nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho học trò nước uống. Khi người học trò ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.

Nếu người học trò có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người học trò) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu người học trò có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người học trò. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho người học trò lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người học trò. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đem nước uống đến cho người học trò.

Ở trú xá nào người học trò cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Trong khi làm sạch sẽ trú xá, trước tiên nên đem y và bình bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc. …(như trên)… Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.

Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu người học trò bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho học trò (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người học trò xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng sự giải tội, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho học trò?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với học trò, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để học trò có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”

Nếu y của người học trò cần phải giặt, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được giặt?” Nếu y của học trò cần phải may, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên may như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được may?” Nếu thuốc nhuộm của người học trò cần phải nấu, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của học trò được nấu?” Nếu y của người học trò cần phải nhuộm, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng. Nếu người học trò bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người học trò khỏe lại.

Này các tỳ khưu, đây là phận sự đối với các người học trò của các vị thầy dạy học. Các vị thầy dạy học đối với các người học trò nên thực hành đúng đắn theo như thế.

Dứt Chương Phận Sự là chương thứ tám

Trong chương này có 21 câu chuyện, 14 phận sự.

Tóm lược chương này:

[446]

Mang dép và che dù,

y trùm đầu, nước uống,

không đảnh lễ (vị lớn),

không dâng (nước), con rắn,

các vị tốt phàn nàn.

Hạ dù, y đắp vai,

đi đến nơi tụ hội,

đặt y và bát xuống,

hỏi han điều thích hợp.

Nên xối với nước rửa,

giày lau khô rồi ướt,

vị lớn, nhỏ, nên hỏi,

phòng trống, chỗ đi bát,

gia đình Thánh Hữu Học,

nhà tiêu, chỗ lấy nước,

gậy chống, điều qui định,

thời biểu, trong chốc lát,

rác, đem ra thảm nền,

khung giường, và tấm nệm,

giường nằm, ghế, ống nhổ,

ván, mạng nhện, các hốc,

sơn đỏ, đen, không sơn,

rác rến, thảm trải nền,

khung giường, giường và ghế,

nệm nằm với tọa cụ,

ống nhổ, ván kê đầu,

y bát và nền nhà,

mép y ở bên kia,

phần gấp lại bên này.

Từ hướng đông, hướng tây,

hướng bắc rồi hướng nam,

lạnh nóng, và đêm ngày,

phòng ốc, cổng ra vào,

phòng hội, nhà đốt lửa,

phận sự ở nhà tiêu,

nước uống, nước để rửa,

và hũ nước súc miệng.

Phận sự vị vãng lai

quy định không sai khác.

Không chỗ ngồi, nước rửa,

không chào hỏi, nước uống,

không đảnh lễ, sắp xếp,

các vị tốt phàn nàn.

Với vị thâm niên hơn,

chỗ ngồi và nước rửa,

đến gặp dâng nước uống,

đôi dép để một bên,

đảnh lễ và sắp chỗ,

phòng trống, chỗ đi bát,

và nhà Thánh Hữu Học,

chỗ nước uống, nước rửa,

cây gậy, thời khoá biểu.

Vị mới tu, cứ ngồi,

chào hỏi và chỉ rõ,

đường lối như dưới đây,

đó là phần phận sự

của các vị thường trú

chỉ dạy bởi Đạo Sư.

Vị xuất hành ra đi

đồ đạc gỗ, gốm sứ,

không đóng cửa, không báo,

bị mất, không bảo vệ,

các vị tốt phàn nàn.

Hãy sắp đặt, đóng cửa,

thông báo rồi ra đi,

tỳ khưu hoặc sa di,

người ở chùa, cư sĩ.

Một khối trên các đá,

nên sắp xếp, đóng cửa,

nếu có được khả năng,

nơi không giột như thế,

nếu bị giột toàn bộ,

(nên gởi) ở trong làng,

để ngoài trời như vậy:

“Mong các thứ tồn tại,”

đây là phần phận sự

của tỳ khưu xuất hành.

Trưởng lão không tùy hỷ,

bỏ đi, bốn năm vị,

nín phẩn, bị choáng váng,

đây phận sự tùy hỷ.

Các vị nhóm Lục Sư

thường mặc y luộm thuộm,

lại trùm y luộm thuộm,

không theo đúng quy cách

và còn đi rẽ ngang

chiếm chỗ các vị lớn,

các vị tân tỳ khưu,

và y saṅghāṭi,

tỳ khưu tốt phàn nàn.

Mặc y đều ba vòng,

thân tề chỉnh, dây buộc,

không hở ra, che kín,

thu thúc, mắt nhìn xuống,

không nên vén y lên

và cười vang lớn tiếng,

thêm ba phần đung đưa.

chống nạnh, trùm, nhón gót,

chiếm chỗ, không cho ngồi,

trải y ra, và nước,

hạ thấp xuống, nước văng,

xung quanh, y hai lớp,

và việc thọ lãnh cơm,

canh, thức ăn hảo hạng,

chia đều phần tất cả.

Nghiêm trang, tâm ở bát,

đều đều, canh vừa đủ,

trưởng lão chờ chưa ăn

và cơm vừa miệng bát.

Nghiêm trang, tâm ở bát,

vừa cơm và đủ canh

không vun cơm, che lấp,

không xin thêm, tìm lỗi,

lớn, tròn đều, há miệng,

trọn bàn tay, không nói,

liên tục bốc thức ăn,

cắn từng chút, phồng má,

rảy tay, cơm vung vãi,

le lưỡi, tiếng chép chép,

tiếng rột rột, liếm tay,

vét bình bát, liếm môi,

thọ lãnh bằng tay dơ,

chờ tất cả, nước rửa,

hạ thấp, và văng nước,

đồ đựng nước, xung quanh,

y hai lớp, thấp xuống,

mặt đất, nước có cơm.

Trong khi đi trở về,

khéo trùm y, nhón gót,

đây phận sự nhà ăn,

bậc Pháp Vương quy định.

Mặc y phục luộm thuộm,

không theo đúng quy cách,

không suy xét, vội vã,

quá xa, (hay) quá gần,

quá lâu, (hoặc) quá mau,

như thế đi khất thực.

Nên trùm kín rồi đi,

thu thúc, mắt nhìn xuống,

vén hở thân, cười lớn,

tiếng ồn, và còn nữa,

ba vật không đung đưa,

chống nạnh, trùm, nhón gót,

không suy xét, vội vã,

quá xa, (hay) quá gần,

quá lâu, (hoặc) quá mau,

(rời) chỗ ngồi, cái muỗng,

cái đĩa, hoặc thỉnh chờ,

giở lên và mở ra,

thọ lãnh không nhìn mặt,

các món xúp cũng vậy.

Vị tỳ khưu che đậy

bằng y saṅghāṭi,

trùm kín rồi mới đi,

thu thúc, mắt nhìn xuống,

không nên vén y lên,

và cười vang lớn tiếng,

chỉ gây tiếng động nhỏ,

ba sự việc đung đưa,

chống nạnh, trùm, nhón gót,

về trước tiên, chỗ ngồi,

chậu đựng các đồ thừa,

nước để uống, nước rửa,

về sau, muốn, hãy ăn,

đổ xuống, rồi cất đi,

dọn dẹp xong, quét nền,

đổ vào lu hết nước,

trống trơn, tay ra hiệu,

không gây thành tiếng động,

đó phận sự khất thực.

Nước uống, rửa, ngọn lửa,

vật tạo lửa, các sao,

phương hướng, và bọn trộm,

“Tất cả đều không có,”

đánh đập, vai mang bát,

y ca-sa, từ đó,

bây giờ, mang ở vai,

đều đặn ba vòng tròn,

giống phận sự khất thực,

các vị sống ở rừng

cũng hành theo lối ấy,

vai bát, y trên đầu,

mang vào, và nước uống,

nước rửa, và ngọn lửa,

vật tạo lửa, cây gậy,

lại nữa các ngôi sao,

toàn bộ hoặc một phần,

và thiện xảo các hướng,

đây phận sự ở rừng,

Tối Thượng Sư quy định.

Ở ngoài trời, lấm bụi,

các vị tốt phàn nàn,

nếu trú xá bị dơ,

trước tiên là y bát,

nệm nằm, giường, gối kê,

ghế ngồi, và ống nhổ,

ván kê đầu, khe hở,

chưa được sơn đỏ đen,

rác rến, gần tỳ khưu,

sàng tọa, trú xá, nước,

ở gần nước để rửa,

ngược gió và mái hiên,

dưới gió, thảm trải nền,

khung giường và giường ngủ,

ghế ngồi, nệm, tọa cụ,

ống nhổ, ván kê đầu,

và y bát trên đất,

mép y ở bên kia,

y gấp lại hướng này,

hướng đông và hướng tây,

hướng bắc và hướng nam,

lạnh nóng và đêm ngày,

phòng ốc và cổng lớn,

phòng hội, và nhà lửa,

nhà tiêu và nước uống,

hũ nước để súc miệng,

và các vị thâm niên,

đọc tụng, hỏi, học bài,

giảng Pháp, thổi ngọn đèn,

không mở cũng không đóng,

quay lại theo vị lớn,

không chạm dầu góc y,

đó phận sự chỗ ngụ,

bậc Đại Nhân quy định.

Bị cản, cửa ra vào,

rồi vị bị ngất đi,

các vị tốt phàn nàn,

nên đổ tro, nhà tắm,

nền nhà, và như vậy,

phòng, cổng lớn, giảng đường,

bột thoa, sét, máng nước,

ở phía trước, khuôn mặt,

không (chiếm chỗ) trưởng thượng,

vị mới tu, nếu được,

phía trước, trên, lối đi,

đọng nước, sét, ghế ngồi,

tắt lửa, và đóng cửa,

là phận sự nhà tắm.

Không rửa, theo thâm niên,

theo phiên, và vội vã,

chen, rặn, gỗ chà răng,

đại, tiểu tiện, khạc nhổ,

sần sùi, hố phân, vội,

lấn, chép miệng, bỏ đi.

Ngoài, và trong tằng hắng,

giây treo, không hấp tấp,

vội vã, vén y, đứng,

rặn, gỗ chà răng, phẩn,

tiểu, khạc nhổ, sần sùi,

hố phân, bệ nhà tiêu,

không vội vã, kéo lên,

sàn rửa, tiếng chép chép,

không chừa nước, che đậy,

dơ và thùng chứa rác,

nhà tiêu, nền xung quanh,

phòng ốc, và cửa lớn,

và nước để rửa ráy,

đó phận sự nhà tiêu.

Đôi dép, gỗ chà răng,

nước súc miệng, chỗ ngồi,

cháo, nước uống, rửa sạch,

dọn dẹp, rác, vào làng,

y lót, dây thắt lưng,

xếp y, bát có nước,

thị giả, ba sự tròn,

mặc đều đặn, dây lưng,

buộc dây, rửa, phía sau,

không xa lắm, nhận lãnh,

khi vị nói, lỗi lầm,

về trước tiên, chỗ ngồi,

nước, ghế kê, ghẻ lau,

quay trở lại, y lót,

ở chỗ nắng, phơi lâu,

phần góc, chỗ gấp lại,

muốn ăn, nên đem lại,

nước uống, rửa, chỗ thấp,

một chốc, chẳng phơi lâu,

y bát và mặt đất,

mép y phía bên kia,

phía này y gấp lại,

cất đi và dọn dẹp,

rác rến và muốn tắm,

lạnh, nóng, và nhà tắm,

bột tắm, sét, phía sau,

và ghế, y, bột tắm,

đất sét, nếu có thể,

khuôn mặt, ở phía trước,

trưởng lão, và mới tu,

kỳ cọ, và đi ra,

phía trước, trong nước, tắm,

mặc y, thầy tế độ,

y lót, y hai lớp,

ghế nhà tắm, chỗ ngồi,

chân, ghế kê, giẻ lau,

nước uống, muốn đọc tụng,

và hỏi về Giáo Pháp,

rác rến, nên làm sạch,

trước tiên là y bát,

tấm thảm để lót ngồi,

nệm nằm và các gối,

giường, ghế ngồi, khung gỗ,       

ống nhổ, ván kê đầu,

nền nhà, màng lưới nhện,

và khe hở, đỏ, đen,

chỗ còn chưa thực hiện,

thảm trải nền, khung gỗ,

giường, ghế, và, gối kê,

đồ lót ngồi, ống nhổ,

ván kê đầu, y bát,

hướng đông và hướng tây,

hướng bắc và hướng nam,

lạnh nóng, và đêm ngày,

phòng ốc và cửa lớn,

phòng họp, và nhà lửa,

nhà tiêu, nước uống, rửa,

nước súc miệng, không vui,

nỗi nghi hoặc, tà kiến,

và tội nặng, từ đầu,

mànatta, giải tội,

khiển trách, việc chỉ dạy,

xua đuổi, hay hòa giải,

rồi hành sự treo tội

nếu đã được thực hành.

Giặt, nhuộm nên thực hiện,

khi nhuộm, việc trộn đều,

và bình bát, y nữa,

đồ phụ tùng, cạo (tóc),

kỳ cọ, việc hầu hạ,

thị giả, đồ khất thực,

không đi vào mộ địa,

bỏ đi sang hướng khác,

đến hết đời, phục vụ,

phần này của đệ tử.

Các điều phận sự ấy

của vị thầy tế độ,

giáo huấn, tụng Giáo Pháp,

vấn hỏi, và bát y,

vật phụ tùng, vị bệnh,

không là vị thị giả.

Giống như thầy tế độ,

ở các thầy dạy học

cũng tương tợ như thế.

Các phận sự đệ tử

cũng giống vị học trò.

Phận sự vị vãng lai,

các vị thường trú nữa,

vị xuất hành, tùy hỷ,

ở trong nhà thọ thực,

và vị đi khất thực,

phận sự của các vị

ở rừng, các chỗ ngụ,

ở nhà tắm, nhà tiêu,

thầy tế độ, đệ tử,

phận sự của thầy dạy,

cũng giống như học trò,

có mười chín sự việc,

mười bốn việc phải làm

được (quy tụ) thành nhóm.

Phận sự không tròn đủ,

không hoàn hảo về giới,

giới không sạch, tuệ kém,

không thấy được nhất tâm,

với tâm bị xáo trộn,

không trụ vào một điểm,

không thấy được Chánh Pháp,

khi không thấy Chánh Pháp,

không thoát khỏi khổ đau.

Vị hoàn thành phận sự,

giới cũng được tròn đủ,

giới trong sạch, có tuệ,

lại đạt được nhất tâm,

tâm không bị xáo trộn,

trụ vào được một điểm,

vị ấy thấy Chánh Pháp,

chứng ngộ được Diệu Pháp,

vị ấy thoát khổ đau,

do đó, nên thành tựu

phận sự đệ tử Phật

thấy rõ ràng lời dạy

của đức Phật tối thượng,

từ đó đạt Niết Bàn.

[1] Là lỗ rún và hai đầu gối Xin xem điều học sekhiya (ưng học pháp) thứ nhất.

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Dầu là người nữ hay người nam, không nên nhìn vào mặt lúc họ đang bố thí vật thực.”

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Nên trao bình bát của mình cho vị thầy và nhận lấy bình bát của vị ấy.”

[4] Theo lời giải thích của ngài Mahāsamaṇa Chao, nếu gấp đôi y lại sẽ có đường gấp ở chính giữa, phần giữa này sẽ ở phần sau lưng khi trùm y vào và là phần thường bị hư hỏng trước nhất do sự cọ xát. Cách gấp y như vầy để hạn chế điều ấy (Vinayamukha 2, trang 75).

Hết Chương 8 - Xem tiếp Chương 9

Quay về Mục lục Chương 8 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments