Tạng Luật - Tiểu Phẩm - 07. Chương Chia Rẽ Hội Chúng - Tụng phẩm thứ ba

Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

Tạng Luật (Vinayapiṭaka)

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Tiểu Phẩm (Cullavagga)

Tập 2

07. Chương Chia Rẽ Hội Chúng (Saghabhedakkhandhaka)

1. Tụng phẩm thứ ba


[389] Tiến hành chia rẽ hội chúng

[391] Sāriputta và Moggallāna thu phục năm trăm tỳ khưu từ Devadatta

[394] Sự ứa ra máu nóng từ miệng của Devadatta

[396] Câu chuyện về các con long tượng

[398] Tám điều kiện để làm vị sứ giả

[401] Nghiệp quả của tám điều phi Pháp và ba điều phi Pháp của Devadatta

[404] Câu hỏi của trưởng lão Upāli: Sự bất đồng trong hội chúng. Sự chia rẽ hội chúng. Chỉ có tỳ khưu mới chia rẽ hội chúng

[405] Thế nào gọi là hội chúng bị chia rẽ?

[406] Thế nào gọi là hội chúng được hợp nhất?

[407] Nghiệp quả của kẻ chia rẽ hội chúng và của vị làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ

[411] Thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng phải gánh chịu sự bất hạnh?

[412] Thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng không phải gánh chịu sự bất hạnh?

[413] Bài kệ tóm lược

[389] Sau đó vào ngày lễ Uposatha, Devadatta đã từ chỗ ngồi đứng dậy phân phát thẻ biểu quyết (nói rằng):

- Này các đại đức, chúng tôi đã đi đến gặp Sa-môn Gotama và đã yêu cầu năm sự việc: “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người khen ngợi sự ít ham muốn, ...(như trên)..., sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, đây là năm sự việc đưa đến sự ít ham muốn, ...(như trên)..., sự ra sức nỗ lực bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, lành thay các tỳ khưu nên là các vị sống ở rừng cho đến trọn đời, vị nào cư ngụ trong làng thì vị ấy phạm tội. ...(như trên)... Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt thì vị ấy phạm tội.” Sa-môn Gotama không cho phép năm sự việc này. Còn chúng tôi thọ trì và thực hành năm sự việc này. Đại đức nào đồng ý năm sự việc này xin hãy nhận lãnh thẻ biểu quyết.

[390] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở thành Vesalī có số lượng năm trăm vị vừa mới xuất gia và không hiểu biết rõ sự việc. Và các vị ấy (nghĩ rằng): “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư” nên đã nhận lấy thẻ biểu quyết. Khi ấy, Devadatta đã chia rẽ hội chúng và dẫn năm trăm tỳ khưu ra đi về phía đỉnh đồi Gayā.

[391] Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, Devadatta đã chia rẽ hội chúng và dẫn năm trăm tỳ khưu ra đi về phía đỉnh đồi Gayā.

- Này Sāriputta và Moggallāna, không lẽ các ngươi không có lòng trắc ẩn đối với các tỳ khưu mới tu ấy hay sao? Này Sāriputta và Moggallāna, các ngươi hãy đi trước khi các tỳ khưu ấy tạo nên điều sai trái và hư hỏng.

- Bạch ngài, xin vâng.

Rồi Sāriputta và Moggallāna nghe theo đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đã đi đến đỉnh đồi Gayā.

[392] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đứng không xa đức Thế Tôn đang khóc lóc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này tỳ khưu, vì sao ngươi khóc?

- Bạch ngài, ngay cả hai vị thượng thủ thinh văn của đức Thế Tôn là Sāriputta và Moggallāna cũng hoan h với giáo lý của Devadatta và đi đến với Devadatta rồi.

- Này tỳ khưu, việc Sāriputta và Moggallāna hoan h với giáo lý của Devadatta là việc không hợp lý và không có cơ sở; tuy nhiên, họ đã đi để cảnh tỉnh các tỳ khưu.

[393] Vào lúc bấy giờ, Devadatta ngồi giữa hội chúng đông đảo đang thuyết giảng Giáo Pháp. Devadatta đã thấy Sāriputta và Moggallāna đang từ đàng xa đi lại, sau khi thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, hãy nhìn xem giáo lý của ta được khéo thuyết như thế nào; ngay cả các thượng thủ thinh văn của Sa-môn Gotama là Sāriputta và Moggallāna cũng hoan h với giáo lý của ta và đi đến với ta nữa.

Khi được nói như thế, Kokālika đã nói với Devadatta điều này:

- Này đại đức Devadatta, chớ có tin tưởng Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna có ước muốn xấu xa và bị chi phối bởi những ước muốn xấu xa.

- Này đại đức, thôi đi. Hãy chào mừng bọn họ bởi vì họ hoan h với giáo lý của ta.

Sau đó, Devadatta đã mời đại đức Sāriputta với một nửa chỗ ngồi (của mình):

- Này đại đức Sāriputta, hãy đi đến. Hãy ngồi chỗ này.

- Này đại đức, thôi đi.

Rồi đại đức Sāriputta đã chọn chỗ ngồi khác và đã ngồi xuống ở một góc. Còn đại đức Mahāmoggallāna cũng đã chọn chỗ ngồi khác và đã ngồi xuống ở một góc. Khi ấy, Devadatta đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại gần như trọn đêm rồi đã bảo đại đức Sāriputta rằng:

- Này đại đức Sāriputta, hội chúng tỳ khưu đã hết dã dượi và buồn ngủ. Này đại đức Sāriputta, ngươi hãy nghĩ đến bài Pháp thoại cho các tỳ khưu. Lưng tôi bị mỏi nên tôi sẽ nằm duỗi lưng ra.

- Này đại đức, được rồi. Đại đức Sāriputta đã trả lời Devadatta.

Sau đó, Devadatta đã xếp y hai lớp (saghāi) lại làm tư rồi thực hiện thế nằm ở phía bên hông phải. Trong khi vị ấy mệt mỏi, thất niệm, không tỉnh giác nên chỉ chốc lát đã chìm vào giấc ngủ.

[394] Khi ấy, đại đức Sāriputta đã sách tấn và giảng giải cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại phân tích về sự kỳ diệu của việc biết được ý nghĩ của người khác. Đại đức Mahāmoggallāna đã sách tấn và giảng giải cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại phân tích về sự kỳ diệu của thần thông. Sau đó, trong khi đang được sách tấn và giảng giải bởi đại đức Sāriputta về sự kỳ diệu của việc biết được ý nghĩ của người khác và bởi đại đức Mahāmoggallāna về sự kỳ diệu của thần thông thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi cho các tỳ khưu ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

Khi ấy, đại đức Sāriputta đã bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, chúng ta hãy đi đến với đức Thế Tôn. Vị nào hoan h với Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy, vị ấy hãy đi đến.

Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đưa năm trăm vị tỳ khưu ấy đi đến Veuvana. Khi ấy, Kokālika đã đánh thức Devadatta:

- Này đại đức Devadatta, hãy dậy đi. Các tỳ khưu ấy đã bị Sāriputta và Moggallāna dẫn đi rồi. Này đại đức Devadatta, không phải tôi đã nói với đại đức rằng: “Này đại đức Devadatta, chớ có tin tưởng Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna có ước muốn xấu xa và bị chi phối bởi những ước muốn xấu xa.”

Khi ấy, ngay tại chỗ ấy máu nóng đã ứa ra từ miệng của Devadatta.

[395] Sau đó, Sāriputta và Moggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, lành thay nếu các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ (hội chúng) có thể tu lên bậc trên lại.

- Này Sāriputta, thôi đi. Ngươi chớ có hoan h với việc tu lên bậc trên lại của các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ. Này Sāriputta, chính vì điều ấy ngươi hãy cho các tỳ khưu là những người ủng hộ kẻ chia rẽ sám hối tội thullaccaya (trọng tội). Này Sāriputta, Devadatta đã cư xử với ngươi như thế nào?

- Bạch ngài, cũng tương tợ như đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu bằng bài Pháp thoại gần như trọn đêm rồi đã bảo con rằng: “Này Sāriputta, hội chúng tỳ khưu đã hết dã dượi và buồn ngủ. Này Sāriputta, ngươi hãy nghĩ đến bài Pháp thoại cho các tỳ khưu. Lưng ta bị mỏi nên ta sẽ nằm duỗi lưng ra;” bạch ngài, Devadatta đã thực hành đúng y như vậy.

[396] Sau đó, đức Thế tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, vào thời trước đây, có cái hồ lớn trong khu vực toàn là rừng. Các con long tượng sống nương tựa vào cái hồ đó. Chúng lặn xuống cái hồ ấy, dùng vòi nhổ lên cọng và ngó sen, rửa kỹ lưỡng cho sạch sẽ, rồi đã nhai (cọng và ngó sen) không còn bùn và nuốt xuống. Điều ấy đem lại cho chúng vóc dáng và sức mạnh. Không vì lý do đó mà chúng phải chết đi hoặc khổ như là chết. Này các tỳ khưu, nhưng trong số các con long tượng đã trưởng thành ấy có những con long tượng còn nhỏ, trẻ, non nớt, đang học hỏi. Những con này đã lặn xuống cái hồ ấy, dùng vòi nhổ lên cọng và ngó sen, đã không rửa kỹ lưỡng cho sạch sẽ, rồi đã nhai (cọng và ngó sen) còn dính bùn và nuốt xuống. Điều ấy đã không đem lại cho chúng vóc dáng và sức mạnh. Vì lý do đó chúng phải chết đi hoặc khổ như là chết. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế Devadatta là kẻ tội nghiệp lại bắt chước ta sẽ phải tiêu hoại.

[397]

Trong khi ăn cọng sen,

con long tượng khổng lồ

xem xét các giòng sông

và lay chuyển trái đất.

Tương tợ con voi con

chỉ ăn toàn đất bùn,

bắt chước cho giống ta,

kẻ tội nghiệp sẽ chết.

[398] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện xứng đáng để đi làm sứ giả. Tám điều kiện ấy là gì? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu là người lắng nghe, là người làm cho (kẻ khác) lắng nghe, là người hướng dẫn, là người hiểu rộng, là người có sự nhận thức, là người làm cho (kẻ khác) có sự nhận thức, là người rành rẽ về việc có lợi ích hoặc không có lợi ích, không phải là người gây nên các sự tranh cãi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này xứng đáng để đi làm sứ giả.

[399] Này các tỳ khưu, Sāriputta hội đủ tám điều kiện xứng đáng để đi làm sứ giả. Tám điều kiện ấy là gì? Này các tỳ khưu, ở đây Sāriputta là người lắng nghe, là người làm cho (kẻ khác) lắng nghe, là người hướng dẫn, là người hiểu rộng, là người có sự nhận thức, là người làm cho (kẻ khác) có sự nhận thức, là người rành rẽ về việc có lợi ích hoặc không có lợi ích, không phải là người gây nên các sự tranh cãi. Này các tỳ khưu, Sāriputta hội đủ tám điều kiện này xứng đáng để đi làm sứ giả.

[400]

Vị nào không sợ hãi

đi vào nơi hội chúng

đang tranh cãi ồn ào,

không bỏ dở lời nói,

không dấu giếm lời dạy,

vị nói không mơ hồ,

bị chất vấn không sân;

vị tỳ khưu như thế

xứng đi làm sứ giả.

[401] Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị xâm chiếm bị ngự trị bởi tám điều không đúng Chánh Pháp là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được. Tám điều ấy là gì?

Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị xâm chiếm bị ngự trị bởi lợi lộc, là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được. Này các tỳ khưu, ... bởi không có lợi lộc …(như trên)… Này các tỳ khưu, ... bởi danh vọng …(như trên)… Này các tỳ khưu, ... bởi không có danh vọng …(như trên)… Này các tỳ khưu, ... bởi vinh hiển …(như trên)… Này các tỳ khưu, ... bởi không có vinh hiển …(như trên)… Này các tỳ khưu, ... bởi ước muốn xấu xa …(như trên)… Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị xâm chiếm bị ngự trị bởi bạn bè xấu xa, là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được. Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị xâm chiếm bị ngự trị bởi tám điều không đúng Chánh Pháp này là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

Này các tỳ khưu, tốt đẹp thay nếu vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn không màng đến lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến ước muốn xấu xa đã được sanh khởi, …(như trên)… có thể sống hoàn toàn không màng đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi.

Và này các tỳ khưu, tùy thuận lợi ích và ý định gì mà vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn không màng đến lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến ước muốn xấu xa đã được sanh khởi, …(như trên)… có thể sống hoàn toàn không màng đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi?

Này các tỳ khưu, bởi vì vị ấy trong khi sống quan tâm đến lợi lộc đã được sanh khởi, các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt có thể sanh khởi; nếu vị ấy trong khi sống hoàn toàn không màng đến lợi lộc đã được sanh khởi, được như thế các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt không thể hình thành được. Này các tỳ khưu, bởi vì vị ấy …(như trên)… đến không có lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến ước muốn xấu xa đã được sanh khởi, ...(như trên)... trong khi sống quan tâm đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi, các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt có thể sanh khởi; nếu vị ấy trong khi sống hoàn toàn không màng đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi, được như thế các lậu hoặc có đặc tính phá hoại và thiêu đốt không thể hình thành được.

Này các tỳ khưu, tùy thuận lợi ích và ý định này mà vị tỳ khưu có thể sống hoàn toàn không màng đến lợi lộc đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến không có lợi lộc đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến danh vọng đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến không có danh vọng đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến vinh hiển đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến không có vinh hiển đã được sanh khởi, ...(như trên)... đến ước muốn xấu xa đã được sanh khởi, ...(như trên)... vị ấy có thể sống hoàn toàn không màng đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi.

Này các tỳ khưu, do đó, ở đây chúng ta sẽ sống hoàn toàn không màng đến lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có lợi lộc đã được sanh khởi, …(như trên)… đến danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có danh vọng đã được sanh khởi, …(như trên)… đến vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến không có vinh hiển đã được sanh khởi, …(như trên)… đến ước muốn xấu xa đã được sanh khởi, chúng ta sẽ sống hoàn toàn không màng đến bạn hữu xấu xa đã được sanh khởi. Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập y như thế ấy.

[402] Này các tỳ khưu, Devadatta có tâm bị xâm chiếm, bị ngự trị bởi ba điều không đúng Chánh Pháp là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được. Ba điều ấy là gì? Ước muốn xấu xa, bạn hữu xấu xa, sự dừng lại ở giữa pháp thiền và pháp siêu thế. Này các t kheo, Devadatta có tâm bị xâm chiếm, bị ngự trị bởi ba điều không đúng Chánh Pháp này là kẻ phải gánh chịu sự bất hạnh, gánh chịu cảnh địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

[403]

Chớ để ác dục gì

sanh khởi ở trên đời,

điều này gây ác dục

hãy nhận biết thế ấy.

Hãy biết kẻ trí tuệ,

bản thân đã chứng thiền,

được nổi danh sáng chói

là “Devadatta”

như tôi đã được nghe.

Kẻ ấy đã ra sức,

một cách không biếng nhác

để sánh với Như Lai,

để rồi vào địa ngục

Avīci bốn cửa

đầy những nỗi kinh hoàng

vì hại bậc hiền thiện,

là kẻ làm ác nghiệp.

Kẻ gây điều ác ấy,

tâm địa thật bất lương,

không còn lòng nhân ái,

nghĩ rằng sẽ đầu độc

hết cả một đại dương

bằng một hũ thuốc độc,

đã không làm gì được

đại dương thật hùng vĩ;

cũng y như thế ấy,

kẻ ấy dùng ngôn từ

quấy rối đấng Thiện Thệ

là bậc đã hoàn hảo,

tâm trí đã thanh tịnh

lời nói đã không còn

tác động đến người được.

Bậc trí hãy kết bạn

với người như thế ấy,

nên phục vụ người ấy.

Tỳ khưu theo đường lối

của vị ấy sẽ đạt

sự chấm dứt khổ đau.

[404] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, có điều nói rằng: “Sự bất đồng trong hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng.” Bạch ngài, cho đến như thế nào được gọi là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng? Cho đến như thế nào được gọi là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng?

- Này Upāli, một bên có một người, bên kia có hai người, người thứ tư phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, một bên có hai người, bên kia có hai người, người thứ năm phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, một bên có hai người, bên kia có ba người, người thứ sáu phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, một bên có ba người, bên kia có ba người, người thứ bảy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, một bên có ba người, bên kia có bốn người, người thứ tám phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy chỉ là sự bất đồng trong hội chúng mà không là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, một bên có bốn người, bên kia có bốn người, người thứ chín phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, như vậy là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, chín hoặc hơn chín là sự bất đồng trong hội chúng và là sự chia rẽ hội chúng.

Này Upāli, tỳ khưu ni không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Cô ni tu tập sự (sikkhamānā) không chia rẽ hội chúng, …(như trên)… Vị sa di không chia rẽ hội chúng, vị sa di ni không chia rẽ hội chúng, nam cư sĩ không chia rẽ hội chúng, nữ cư sĩ không chia rẽ hội chúng và cũng không nỗ lực để đưa đến sự chia rẽ. Này Upāli, vị tỳ khưu bình thường (pakatatto) là người cùng cộng trú chung một ranh giới (sīmā) chia rẽ hội chúng.

[405] Bạch ngài, có điều nói rằng: “Sự chia rẽ hội chúng, sự chia rẽ hội chúng.” Bạch ngài, cho đến như thế nào thì hội chúng bị chia rẽ?

- Ở đây, này Upāli, các tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Do mười tám sự việc này, các vị ấy tách ra và tách rời hẳn, chúng thực hiện lễ Uposatha riêng rẽ, chúng thực hiện lễ Pavāraa riêng rẽ, chúng thực hiện hành sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy thì hội chúng bị chia rẽ.

[406] Bạch ngài, có điều nói rằng: “Sự hợp nhất hội chúng, sự hợp nhất hội chúng.” Bạch ngài, cho đến như thế nào thì hội chúng có sự hợp nhất?

Ở đây, này Upāli, các tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Phi Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố Luật là: “Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Vô tội;” tuyên bố phạm tội là: “Phạm tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nặng;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội còn dư sốt là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội không xấu xa.” Với mười tám sự việc này, các vị ấy không tách ra và không tách rời hẳn, không thực hiện lễ Uposatha riêng rẽ, không thực hiện lễ Pavāraa riêng rẽ, không thực hiện hành sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy thì hội chúng có sự hợp nhất.

[407] Bạch ngài, sau khi chia rẽ hội chúng hợp nhất, kẻ ấy gây nên điều gì?

- Này Upāli, sau khi chia rẽ hội chúng hợp nhất, kẻ ấy gây nên tội lỗi tồn tại trọn kiếp và sẽ bị nung nấu trong địa ngục trọn kiếp.

[408]

Kẻ chia rẽ hội chúng

phải chịu sự bất hạnh,

vào địa ngục trọn kiếp.

Vui thích với phe nhóm,

lại sống không theo Pháp,

kẻ ấy bị xa rời

sự an tịnh của thiền.

Sau khi đã chia rẽ

hội chúng đang hợp nhất

kẻ ấy bị nung nấu

trong địa ngục trọn kiếp.

[409] - Bạch ngài, sau khi làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ, vị ấy tạo được điều gì?

- Này Upāli, sau khi làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ, vị ấy tạo được phước báu của Phạm Thiên và sẽ được vui hưởng ở cõi trời trọn kiếp.

[410]

Thật là an lạc thay

sự hợp nhất hội chúng

và tán đồng cùng với

những ai sống hợp nhất.

Hoan h trong hợp nhất,

và sống đúng theo Pháp,

vị ấy trú vào được

sự an tịnh của thiền.

Sau khi đã tiến hành

hợp nhất lại hội chúng,

vị ấy được vui hưởng

ở cõi trời trọn kiếp.

[411] Bạch ngài, có thể nào kẻ chia rẽ hội chúng sẽ phải gánh chịu sự bất hạnh, sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được?

- Này Upāli, kẻ chia rẽ hội chúng có thể sẽ phải gánh chịu sự bất hạnh, sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

- Bạch ngài, có thể nào kẻ chia rẽ hội chúng sẽ không phải gánh chịu sự bất hạnh, không sanh vào địa ngục, không bị đọa trọn kiếp, có thể đổi khác được?

- Này Upāli, kẻ chia rẽ hội chúng có thể sẽ không phải gánh chịu sự bất hạnh, không sanh vào địa ngục, không bị đọa trọn kiếp, có thể đổi khác được.

- Bạch ngài, thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được?

- Này Upāli, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: “Pháp.” Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ, sau khi xác định lầm kiến thức, xác định lầm sự mong ước, xác định lầm sự thỏa thích, xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: “Pháp.” Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ, sau khi xác định lầm kiến thức, xác định lầm sự mong ước, xác định lầm sự thỏa thích, xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: “Pháp.” Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, có hoài nghi trong việc chia rẽ, sau khi xác định lầm kiến thức, xác định lầm sự mong ước, xác định lầm sự thỏa thích, xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: “Pháp.” Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ, …(như trên)… Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, có hoài nghi trong việc chia rẽ, …(như trên)… Có hoài nghi trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ. Có hoài nghi trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ. Có hoài nghi trong điều ấy, có hoài nghi trong việc chia rẽ, sau khi xác định lầm kiến thức, xác định lầm sự mong ước, xác định lầm sự thỏa thích, xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố Pháp là “Phi Pháp;”…(như trên)… tuyên bố phi Luật là “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ. Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ. Với kiến thức sai Pháp trong điều ấy, có hoài nghi trong việc chia rẽ. Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ. Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, có hoài nghi trong việc chia rẽ. Có hoài nghi trong điều ấy, với kiến thức sai Pháp trong việc chia rẽ. Có hoài nghi trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ. Có hoài nghi trong điều ấy, có hoài nghi trong sự chia rẽ, sau khi xác định lầm kiến thức, xác định lầm sự mong ước, xác định lầm sự thỏa thích, xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ phải) gánh chịu sự bất hạnh, phải sanh vào địa ngục, bị đọa trọn kiếp, không thể khác được.

[412] - Bạch ngài, thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không phải gánh chịu sự bất hạnh, không sanh vào địa ngục, không bị đọa trọn kiếp, có thể đổi khác được?

- Này Upāli, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là: “Pháp.” Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ, sau khi không xác định lầm kiến thức, không xác định lầm sự mong ước, không xác định lầm sự thỏa thích, không xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không phải gánh chịu sự bất hạnh, không sanh vào địa ngục, không bị đọa trọn kiếp, có thể đổi khác được.

Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp,”…(như trên)… tuyên bố tội ác xấu là: “Tội không ác xấu.” Với kiến thức đúng Pháp trong điều ấy, với kiến thức đúng Pháp trong việc chia rẽ, sau khi không xác định lầm kiến thức, không xác định lầm sự mong ước, không xác định lầm sự thỏa thích, không xác định lầm bản chất rồi vị ấy phân phát thẻ biểu quyết tuyên bố rằng: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Hãy nhận lấy thẻ này, hãy ủng hộ việc này.” Này Upāli, đây là kẻ chia rẽ hội chúng (sẽ) không phải gánh chịu sự bất hạnh, không sanh vào địa ngục, không bị đọa trọn kiếp, có thể đổi khác được.

Dứt tụng phẩm thứ ba

Dứt Chương Chia Rẽ Hội Chúng là chương thứ bảy

Tóm lược chương này:

[413]

Các người có danh tiếng

ở Anupiyā,

vị mảnh mai không chịu,

cày, gieo hạt, dẫn nước,

tưới, nhổ cỏ, gặt hái,

thâu hoạch, chất đống, đập,

tách rơm, sàng, nhập kho,

tương lai không ngừng nghỉ,

cả cha lẫn các ông.

Các vị dòng Thích Ca

(đức vua) Bhaddiya,

và Anuruddha,

Ānanda, Bhagu,

Kimila, ngã mạn.

Chuyện ở Kosambī,

thần thông bị mất hết,

thiên tử Kakudha,

Ngài giảng giải, của cha,

những sát thủ, hòn đá,

voi Nāāgiri.

Ba (lần mưu giết hại)

(yêu cầu) năm (điều kiện)

đều là việc trầm trọng.

Kẻ chia rẽ, trọng tội.

Ba rồi tám (phi Pháp),

lại ba (điều phi Pháp).

Bất đồng và chia rẽ,

có thể nào không tội?

[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Bhaddiya vì thương mến bạn muốn nói rằng: “Tôi với bạn sẽ xuất gia, bạn cứ việc xuất gia một cách thoải mái” nhưng vì lòng ham muốn làm vua ngăn cản trái tim lại nên không thể nói hết câu được.

[2] Dịch sát nghĩa là “cho trái, kết trái.”

[3] Điều pācittiya (ưng đối trị) 32.

[4] Ngài Buddhaghosa giải thích là āyukappa nghĩa là khoảng thời gian của cuộc sống (āyu).

Hết Chương 7 - Xem tiếp Chương 8 - Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm

Quay về Mục Lục Tạng Luật



0 Comments