Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
04. Chương Dàn Xếp (Samathakkhandhakaṃ)
4. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận (Paṭiññātakaraṇaṃ)
[608] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[609] Sự phán xử theo tội đã được thừa nhận không đúng Pháp
[610] Sự phán xử theo tội đã được thừa nhận đúng Pháp
[608] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đối với các tỳ khưu không có sự thừa nhận. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự khiển
trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đối các tỳ khưu không có sự thừa
nhận?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi,
hoặc hòa giải, hoặc án treo không nên thực thi đối với các tỳ khưu không có sự
thừa nhận; vị nào thực thi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[609] Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận
như vầy là không đúng Pháp, như vầy là đúng Pháp.
Và này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa
nhận là không đúng Pháp?
- Vị tỳ khưu phạm tội pārājika (bất cộng trụ). Hội chúng, hoặc
nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội
pārājika?” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika,
tôi đã phạm tội saṅghādisesa (Tăng tàng).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội
saṅghādisesa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội
thullaccaya (trọng tội).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội thullaccaya. Việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội
pācittiya (ưng đối trị).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pācittiya. Việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội
pāṭidesanīya (ưng phát lộ).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pāṭidesanīya.
Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội
dukkaṭa (tác ác).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dukkaṭa. Việc phán xử
theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội
dubbhāsita (ác khẩu).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dubbhāsita. Việc
phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. …(như trên)… tội thullaccaya.
…(như trên)… tội pācittiya. …(như trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội
dukkaṭa. …(như trên)… tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển
trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?” Vị ấy nói như
vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội dubbhāsita, tôi đã phạm tội
pārājika.” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội
đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội dubbhāsita, tôi đã phạm tội
saṅghādisesa.…(như trên)… tội thullaccaya. …(như trên)… tội pācittiya. …(như
trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội dukkaṭa.” Hội chúng hành sự cho vị ấy
với tội dukkaṭa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế
gọi là không đúng Pháp.
[610] Này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đã được
thừa nhận là đúng Pháp?
- Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một
vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?” Vị ấy
nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã phạm tội pārājika.” Hội chúng hành sự cho
vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. …(như trên)… tội thullaccaya.
…(như trên)… tội pācittiya. …(như trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội
dukkaṭa. …(như trên)… tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển
trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?” Vị ấy nói như
vầy: “Này các đại đức, tôi đã phạm tội dubbhāsita.” Hội chúng hành sự cho vị ấy
với tội dubbhāsita. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế
gọi là đúng Pháp.
Xem Thuận theo số đông
Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments